NguoiLinhGiaXaQueHuong

Chuyển Quân


Đà Nẵng - Một ngày đầu Hè 1972


Vào những tháng cuối của năm 1972, Tiểu Đoàn 79 Biệt Động Quân đảm nhận nhiệm vụ làm một vòng đai an ninh chung quanh Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 1 Quân Khu 1 (BTL QĐ1/QK1) tại thành phố Đà Nẵng. Đại đội 2 và Đại đội 4 đóng quân ngay trong khuôn viên Bộ Tư Lệnh. Đại đội 3 đóng đô tại xóm Hoà Cường về phía Nam, sau lưng BTL/QĐ. Đại đội 1, trong đó có tôi, trú đóng trong xóm Chợ Mới, hướng Bắc, đối diện BTL/QĐ.

=<>=

Vào một ngày gần cuối năm, có tin Tiểu đoàn đi về hậu cứ khiến mọi người bàn tán xôn xao.

Vui mừng nhất là những người có gia đình, thân nhân ở Thường Đức. Họ hớn hở vội vàng ra phố, đi chợ, mua sắm quà cáp về cho gia đình, bà con chòm xóm.

Còn những chàng nào có bồ tèo ở phố, yêu đương lăng nhăng, nhưng còn nặng lòng với tiền đồ, bèn cuống quít, rối rít hò hẹn tỉ tê, dung dăng dung dẻ được lúc nào hay lúc đó.

Riêng những anh nào thuộc loại tình chìm nước nổi, nặng tình hơn nặng nước, bắt đầu âm thầm tính chuyện xé rào, đào ngũ.

Còn lại là những hội viên thuộc hội “Tình cho không biếu không”, yêu bất vụ lợi, yêu không cần đáp lại, mà tôi là một hội viên gạo cội từ thuở biết xôn xao. Tuy không vướng bận lôi thôi, nhưng chúng tôi cũng bận rộn thu xếp đồ đạc cho vào ba-lô, xong rồi lang thang hết rạp xi-nê này đến tiệm bi-da, cà-phê nọ cho khỏi phí thì giờ còn lại.

Riêng tôi, toàn thể tài sãn gồm có:

  • 1 ba-lô thuộc loại của lính Mỹ, nguyên xi, mua ở trên chợ Cồn. Vì tốn cũng khá bộn bạc cho cái ba-lô nầy nên tôi không muốn nó lọt vào tay cái đám nón cối, trong trường hợp nó bị nằm lại đâu đó ở trong rừng. Vì vậy, trên nắp ba-lô, tôi cẩn thận tô lên hàng chữ bằng mực viết nguyên tử: “Cái ba-lô này đã bị ếm. Thằng nào lấy đồ trong cái ba-lô nầy thì có ngày cả băng đạn sẽ ghim vào người nó, củ bùi trước bụng sau, từng viên một.”
  • 2 bộ đồ trận, cũng loại quân phục của lính Mỹ mua ở chợ Cồn (bền và mỏng hơn quân phục do Quân Nhu cung cấp), 1 trên người 1 sơ-cua. Hai bộ đồ rằn-ri được sửa lại cho phù hợp với kích thước với hai cái ống loa bay phất phới cho hợp gu thời đó. Một số trong chúng tôi, lính chớ không phải quan, tuy đi đánh giặc nhưng quần áo cũng cần phải hợp thời trang. Có mặc đẹp thì đánh giặc thoải mái hơn.
  • 1 đôi giày trận, cũng loại của lính Mỹ, mua trên chợ Cồn.
  • 2 cái quần đùi (lót), 1 mặc 1 thay đổi.
  • 2 đôi vớ, cũng 1 mặc 1 thay đổi.
  • 1 cái vỏng ny-lông, loại dày, cũng loại của lính Mỹ, mua trên chợ Cồn.
  • 1 cái pông-sô-lay (Poncho Liner) rằn-ri để đắp, cũng loại của lính Mỹ, mua ở chợ Cồn.
  • 1 cái áo pông-sô (Poncho) loại dày, dùng vừa lều vừa chiếu. Thừa hưởng được của một thằng nào đó chết trận trước đây.
  • 1 cây viết.
  • 1 tập vở, dùng để viết lách thư từ lăng nhăng.
  • 1 hộp kem đánh răng.
  • 1 bàn chải đánh răng.
  • 1 cái muổng i-nóc, vừa múc thức ăn vừa cạo gió.
  • 3 cây thuốc Bastos, số lượng nhiều ít tùy theo đầu tháng hay cuối tháng.
  • 1 quyển sách, trước đọc sau rải truyền đơn.
  • 1 quyển album bỏ túi đầy hình dầy cộm, trước để xem, sau dùng làm khiêng để che quả tim. Cản được cở nào hay cở đó.
  • 1 cái bao đựng nước con rùa, cũng loại của lính Mỹ mua ở chợ Cồn, vừa trử nước vừa làm phao cấp cứu. Hy vọng như vậy, vì tôi không biết bơi.
  • Và quan trọng nhất là 1 bao gạo sấy khổ lớn, luôn luôn nằm dưới đáy ba-lô, được thay đổi thường xuyên, dùng để dự trử cho những lúc không được tiếp tế, và sự hữu dụng thiết thực của nó đã chứng minh nhiều lần trong những năm tháng sau này.

Tất cả những thứ này, cái nào bỏ được lên người thì tôi mang, còn lại, tôi cho tất cả vào trong túi ba-lô, rồi đợi ngày lên xe đi về Thường Đức.

=<>=

Kể từ ngày tôi về với Tiểu đoàn cho đến nay, hết Huế rồi Đà Nẵng, xong Quảng Ngãi lại cũng về Đà Nẵng, hành quân hết chỗ này lại đi giải tỏa chổ nọ, nhưng tôi chưa bao giờ biết mặt hậu cứ ra sao. Tôi nghe nói hậu cứ đặt ở Thường Đức, nhưng tôi không biết Thường Đức nằm ở chổ nào. Chỉ nghe nói là nó ở xa, xa lắm, giáp dãy Trường Sơn, gần biên giới Lào, chung quanh chỉ toàn rừng với núi.

Bản tính tôi vốn thích ngao du sơn thủy, có dịp đi đến những nơi xa lạ là tôi cảm thấy hứng khởi thích thú. (Đồn rằng khi còn nhỏ, tôi đã mò mẩm ra đường cái quan, đeo xe đò, đi hoang sang những thành phố lân cận, thường xuyên). Nay nghe nói ở Thường Đức có rừng sâu rậm rạp, cây cối đồ sộ cao lớn che khuất cả vòm trời. Tôi tưởng tượng đến những khu rừng âm u huyền bí ở miệt Bắc trong những câu chuyện đường rừng của ông Thế Lữ, đã làm tôi vừa mê vừa run từ hồi còn bé.

Tôi mường tượng Thường Đức với những triền núi xanh đậm cây rừng. Có buôn Thượng với những căn nhà sàn, xen lẫn với cây rừng, nằm bên giòng suối róc rách chảy. Trên những phiến đá ven bờ suối, vài cô sơn nữ đang giặt giủ, cười nói líu lo hòa cùng tiếng chim ríu rít hót, được đệm thêm bằng những âm thanh rù rì xôn xao của lá rừng vào mỗi lần gió thoảng.

Rồi tôi hình dung đến hậu cứ với những doanh trại khang trang, có đầy đủ giường chiếu mùng màn như những trại lính đó đây ở Đà Nẵng. Tôi sẽ không còn bị cảnh phải ngủ ké ngoài hiên nhà của người dân. Và nhất là không cần phải dậy sớm thu gọn vỏng mùng trước khi gia đình chủ nhà thức dậy. Trong thâm tâm, tôi cho rằng, nếu hậu cứ có tệ lắm thì cái tiện nghi tối thiểu của nó cũng thuộc vào loại kiểu quân trường: Một cái giường ọp ẹp và một lủ rệp hành quân bất kể ngày đêm.

Ngần ấy thôi cũng đủ làm tôi hăm hở nôn nao chờ ngày đi về Thường Đức, một chổ tôi chưa hề tới, một chổ tôi có thể gọi là nhà.


Đà Nẵng - Một ngày cuối năm 1972


Ngày ra đi, Đại đội tập họp trước sân đình trong khu nghĩa địa đợi lịnh di chuyển. Trên sân đình, cả chục thùng đạn đã được mở nắp nằm sẵn đợi. Chúng tôi được lịnh lảnh đạn, lựu đạn, mìn, M-72 theo đúng cấp số hành quân cùng với mấy ngày lương khô.

Đám lính tráng thắc mắc xì xào:

- (vt) Về Thường Đức mà sao giống như đi hành quân quá dị?

- ... thì ... chắc củng phải mang đi hết chớ hổng lẻ bỏ nó ở đây?

Thấy lính tập họp ra đi, dân chúng hiếu kỳ tụ tập coi lính ra quân. Khung cảnh chung quanh nghĩa địa ồn ào náo nhiệt. Đó đây, những nhóm người tụm năm tụm ba, mặt mày rầu rĩ, lăng xăng, năn nỉ đòi nợ. Người thì bịn rịn không rời. Có nàng nước mắt rưng rưng. Riêng đám con nít thì xôn xao hí hửng như ngày hội. Chúng nó xúm xít, chiêm ngưỡng những người lính trong quân phục tác chiến như những chàng hiệp sĩ sắp ra sa trường. Bình thường, chúng nó chỉ thấy chúng tôi trong quân phục nghiêm chỉnh, giày đánh bóng, quần bó ống, áo xắn vai, đầu mũ nâu .v.v... Nay, tay áo ống quần được thả xuống, đầu đội nón vải nón sắt, dây đạn đeo đầy người, ba-lô súng ống tua tủa, trông chiến lắm. Đám choai choai lớn hơn thì trầm trồ, chỉ chỏ, bàn tán những loại vũ khí đang dựng, gác xếp khắp nơi, đây đó, trong hàng quân.

Một vài đứa trong chúng tôi thấy ba-lô của tụi nó không đủ chỗ để bỏ hết lương khô, tụi nó bèn đem một số đồ hộp, gạo sấy đi cho những người quen hay cho mấy thằng nhóc trong xóm đứng gần đó. Tôi thấy vậy cũng bắt chước tụi nó đem mấy hộp bánh cho mấy đứa lỏi tỳ đang đứng bên ngoài.

Có lệnh đi, chúng tôi lục rục quàng dây đạn, đeo ba-lô, súng lên vai, chuẩn bị di chuyển. Một vài tiếng nấc thổn thức bật lên trong số người đi đưa tiển. Tiếp theo là những âm thanh sụt xùi tỉ tê. Tôi cứ nghĩ, kể từ ngày hôm nay, dân trong xóm Chợ Mới sẽ vui mừng trở lại cuộc sống thường nhật của họ, vì không ít thì nhiều, sự hiện diện của chúng tôi trong xóm, cả năm ba tháng qua, cũng đã thay đổi sinh hoạt bình thường của họ không ít. Chứ có ai ngờ họ lại nặng lòng bịn rịn lưu luyến thế này. Cảnh trò chuyện ồn ào náo nhiệt vài phút trước đây, nay như im hẳn chỉ còn những tiếng va chạm sắt thép của súng ống. Tôi nhìn quanh một vòng như níu lấy hình ảnh cuối cùng. Tôi bắt gặp những ánh mắt đỏ hoe với dòng nước mắt còn ướt trên khuôn mặt. Có người như không ngăn nổi cơn xúc động, để mặc cho tiếng nất bật thành tiếng khi những người lính ở hàng đầu dượm bước ra đi.

Có những tiếng xì xào bàn tán trong hàng quân:

- (vt), đi đâu đây? Sao hổng thấy chiếc xe nào hết dậy?

- Chắc lội bộ về Thường Đức.

Một giọng nói có vẻ khôi hài đáp lại. Một thằng khác, diễu cợt phụ họa theo.

- (vt), lội kiểu này chắc thì chắc đi tới mút mùa lệ thủy.

=<>=

Theo hàng một, chúng tôi băng ngang qua bãi đáp trực thăng của Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 1, quẹo trái, hướng về Ngã Tư Quân Đoàn. Tại ngã tư, đã có bóng dáng những người lính Quân cảnh và Cảnh Sát Giao Thông đang chận xe cộ qua lại.

Có tiếng nói vang lên trong hàng quân.

- (vt), chắc xe đậu ở “Quà” Cường?

- Ở Hoà Cường thì tại sao Quân cảnh lại chận xe ở ngã tư làm gì. Mình có thể đi dọc theo bên hông Quân Đoàn đi xuống cũng được.

Nói tới đây thì người lính đi đầu đã băng qua ngã tư về phía bên kia đường rồi rẽ phải về hướng Hoà Cường.

Lúc này, dân chúng cộng với những người đi đường bị chặn lại, đổ xô tề tựu chung quanh ngã tư xem lính trận “di hành” trong thành phố.

Oai phong nhất là những ông sĩ quan thuộc cấp chỉ huy. Các ông được quyền đi đứng bên ngoài hàng quân. Mỗi ông đều có một người lính mang máy truyền tin đi theo kè kè một bên. Trên lưng các ông không có lấy được một cái ba-lô nên các ông đi đứng thong thả trông rất oai phong. Riêng ông Đại đội trưởng, súng Colt đeo bên hông, một tay cầm bản đồ tay kia cầm gậy, có hai người mang hai cái máy truyền tin đi theo, trông ông uy nghi và bệ vệ ra phết.

Tội nghiệp cho mấy thằng lính như tôi. Không những đeo một mớ súng đạn chất chồng lớp lớp từ đầu tới mông, từ hông bên này vòng qua hông bên kia, rồi lại còn mang thêm trên lưng một cái ba-lô nặng trình trịch như khiêng cái bao gạo trăm ký. Cái lưng của tôi nó cong quằn xuống như cái đuôi của con chuồn chuồn. Nó khòm đến độ mà thằng gù ở nhà thờ Đức Bà cũng phải buộc miệng trêu tôi. Vậy mà tôi phải phồng mang, đỏ mặt tía tai, ráng ưỡn cái lưng cho thẳng đứng để ra vẻ hùng dũng, đặng khỏi phải bẻ mặt với dân chúng đang đứng mục kích thưởng ngoạn xung quanh.

Tôi hồi tưởng lại lần tôi đi cắm trại vào năm học lớp nhì. Chúng tôi, một lũ nhóc tì cũng đi hàng dọc như thế này trên con đường phố tiến về ngoại ô. Tôi được ông thầy cử làm đội trưởng nên tôi được đi bên ngoài để giữ gìn trật tự đội ngũ của tôi. Hồi đó, cả lớp tôi không có đứa nào có được cái ba-lô. Thằng thì xách bao, đứa mang bị. Chỉ có tôi là có cái ba-lô do ông bô tôi cho mượn, sau khi cho tôi một lô dặn dò cùng vài lời hăm dọa đến tính mạng. Nhờ có cái ba lô nên tôi nổi nhất trong đám. Tôi thấy cái ba-lô như là cái bửu bối. Đeo nó vào, tự nhiên tôi thấy tôi to lớn, quan trọng hẳn lên. Tháo nó ra, tự dưng tôi bé cái xìu như cái bong bóng xì hơi. Vì vậy, suốt cả cuộc hành trình, mồ hôi vã ra như tắm, nhưng tôi vẫn cứ khăng khăng đeo cái ba-lô trên vai. Thấy mấy đứa cùng trang lứa đứng bên đường thèm thuồng trông theo đám học trò đi cắm trại, tôi làm dáng trịnh trọng ra vẻ mình là đội trưởng cho le lói nên trông cũng hách xì-xằng lắm. Tôi làm cứ y như là không có tôi đi bên ngoài thì cả cái đám lỏi kia không có đứa nào biết đi thẳng hàng cho được.

Tiếc rằng quân đội không nhìn thấy cái tài lãnh đạo của tôi nên tôi phải khệ nệ khiêng súng ôm đạn đi đứng loạng choạng như thế này. Chứ nếu mà quân đội có cái nhìn xa như ông thầy tôi hồi đó, thì tôi cũng đi đứng hiên ngang không kém gì mấy ông quan ngoài kia vậy. Hổng chừng còn ngon hơn nữa kìa. Âu, đó cũng là vận nước!

Đến ngã tư rồi chúng tôi cũng không thấy một chiếc GMC nào đậu sẳn trên đường. Thay vì cứ tiếp tục đi thẳng về hướng Hòa Cường, người lính đi đầu lại quẹo trái đi vô ngôi trường Trung học nằm cạnh con sông Hàn gần đó. Đám lính chúng tôi phân vân không hiểu đi vô trong trường học để làm gì.

- Ê, hổng lẻ mình đổi chỗ đóng quân ở trong đó?

- Chổ này là trường học mà đóng quân cái mốc gì.

- Chắc Hải Quân đến chở mình về Thường Đức bằng tàu?

- Nếu mà đi bằng tàu thì mình phải đi qua bến tàu bên kia chớ vô đây làm chi.

- Biết đâu bên kia có tàu đang bốc hàng, nên không có chổ cho tàu vô rước mình, nên họ phải dùng tạm cái bãi này.

Một thằng tương đối biết suy nghĩ hơn trong bọn bèn góp ý:

- Tao nghĩ là trực thăng đến đón mình.

Tự nãy giờ mới thấy có một thằng ăn nói ra hồn. Tôi nghĩ nó nói chắc có lý. Nếu dùng trực thăng đến chở chúng tôi thì chỉ có nơi đây là thích hợp và gần gũi nhất.

=<>=

Ngôi trường Trung học là một dãy nhà lầu, nhiều tầng, nằm dọc theo bờ sông Hàn. Một mặt hướng ra đường, đối diện hông Quân Đoàn. Mặt kia, kế bờ sông Hàn, trông về bên Mỹ Khê. Nằm giữa bờ sông và ngôi trường là cái sân chơi rộng chạy dọc theo chiều dài ngôi trường. Ngoại trừ hướng Tây là đối diện trực tiếp với khuôn viên của Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 1 và thành phố Đà Nẵng, ba hướng còn lại với khung cảnh trống trải và quang đãng, nhất là hướng đông cạnh con sông Hàn, nên cái sân chơi là nơi thích hợp cho việc trực thăng lên xuống bốc quân rất là thuận tiện.

Như để xác định với tôi lời thằng tuyên bố vừa rồi là chính xác, chúng tôi được lịnh tập họp thành từng toán nhỏ. Mỗi toán cho mỗi chiếc trực thăng.

Tin đi bằng trực thăng làm đám lính xôn xao. Một vài đứa tỏ ra thành thạo:

- (vt) Chắc là đi hành quân rồi. Chớ đi Thường Đức thì cần gì phải đi máy bay. Hèn gì lúc lảnh lương khô là tao đã nghi ngờ rồi.

- Thôi đúng rồi. Chắc là đi Quế Sơn. Nghe nói lính mình đang quýnh nhau ở đó.

Tội nghiệp cho mấy người ở Thường Đức. Họ bán tín bán nghi lăng xăng đi hỏi đầu này đầu nọ. Có người vội vàng đem những gói quà đưa cho ông tiếp liệu của Đại đội nhờ chuyển về hậu cứ dùm cho họ.

Khi còn ở quân trường, tôi cũng có học qua cách hành quân Trực Thăng Vận. Tôi cũng trèo lên nhảy xuống, lăn lộn, đủ cỡ đủ kiểu, nhưng mà chỉ tập với trực thăng giả nằm lơ lửng ở trên không. Bây giờ sắp sửa chơi với thứ thiệt, bay thiệt, nên tôi cảm thấy hồi hộp, nhưng đồng thời, máu mạo hiểm trong người tôi cũng ồn ào giơ tay giơ chân tình nguyện nên tôi cũng cảm thấy háo hức.

Tôi lo nhất là nếu phải bị ngồi đong đưa ở bên mép sàn trực thăng. Tôi sợ chiếc trực thăng bay nghiêng hay quẹo ngoặt một tý thì tôi chỉ có nước bay lọt ra ngoài. Tôi tự dặn mình, làm sao cũng phải chen chân dành cho được cái chỗ chính giữa, ở ngay trong lòng trực thăng cho chắc ăn.

=<>=

Trong khi chờ đợi trực thăng đến đón, đa số lính tráng tụm năm tụm ba, đứng ngồi tán gẩu. Một đứa nhìn về hướng Bộ chỉ huy Tiểu đoàn, nơi mấy ông đơn vị trưởng đang đứng vòng tròn có vẻ như đang họp, bổng dưng lên tiếng thắc mắc:

- Hê, sao tao không thấy ông Đại đội trưởng nào đi hành quân mà mang súng vậy mậy?

- Súng côn mấy ổng đeo bên hông đó.

- Súng đó mà bắn cái gì. (vt) Bắn muổi à? Tao nói M-16 kìa.

- Ổng đâu cần M-16.

- Dị làm sao ổng bắn việt cộng? (vt) Lở có thằng nào chạy lạc qua tuyến của mình như bửa trước thì làm sao?

- Ổng có cây gậy đó. Tụi việt cộng mà tới gần là ổng dùng gậy đập chết tụi nó được.

Như ngại thằng kia chưa tin, nó bèn giải thích thêm:

- Nghe nói là trước khi được làm Đại đội trưởng, mấy ổng phải luyện võ gậy. Tao thấy, từ mấy ông Đại đội trưởng trở lên, ông nào đi hành quân cũng đều cầm gậy hết. Tao nghĩ là gậy của mấy ổng lợi hại hơn súng M-16 nhiều.

Rồi nó làm cái mặt ra vẻ bí mật và quan trọng trầm giọng:

- Dám chừng là gậy thần đó mày.

- Sao tao thấy có mấy ông không phải Đại đội trưởng mà sao họ cũng cầm gậy vậy. Họ học võ hồi nào?

- À, mấy ông nầy học võ chưa xong nhưng muốn mang đai sớm nên mấy ổng đang chuẩn bị dư luận đấy. Trước là nhắn cho ông Tiểu đoàn trưởng biết là nếu mai mốt mà có chổ trống, hay có ông Đại đội trưởng nào quy tiên, thì nhớ tới cái tên của em í mà. Sau là nhắn nhủ cho những quan quân khác biết là ổng đang mon men làm Đại đội trưởng dự bị đấy, chớ đừng có giởn mặt với ổng.

- (vt) Dị mà hồi trước tới giờ tao tưởng chưng của mấy ông này bị tật, nên đi hành quân phải cầm theo cây gậy.

Ông Tiểu đội trưởng ngồi gần đó, từ nảy giờ im lặng, giờ nghe chúng tôi ăn nói có phần ngông, bèn lên tiếng cảnh giác:

- Tụi mày khôn hồn nên tránh xa mấy ông này. Lạng quạng có ngày ổng cho vô bụng tụi mày một chầu bốt-đờ-sô[1] là bỏ mẹ.

- Sao vậy?

- À ... Không phải ai cũng vậy, nhưng thường thì mấy người háo danh chỉ nghĩ cho mình không thôi. Mấy người này coi lính như là phương tiện tiến thân, cho nên họ không coi trọng tụi mình cho lắm. Vì trong thâm tâm họ coi thường mình, nên khi mình làm điều gì khiến họ bực tức, họ bèn xoay ra đánh đập như một thứ phản ứng tự nhiên.

Nghe ông Tiểu đội trưởng thuyết cho một bài học về thế thái nhân tình, cả bọn chúng tôi như khựng lại trước những ý tưởng mới mẻ và nhận định xâu sắc đối với chúng tôi. Một thằng, tự dưng, tủm tỉm cười. Thằng bên cạnh thấy nó cười, cũng cười lây theo nhìn nó thắc mắc:

- (vt) Mày cười cái gì vậy?

Cái thằng cười, chắc cũng đã từng “ưu tư” trước tệ nạn này, không chần chừ, nói ngay:

- Tại vì hồi trước tới giờ, tao cứ tưởng họ coi mình như là trâu bò, nên muốn đập lúc nào cũng được. Bây giờ, nghe ông Tiểu đội trưởng nói như vậy, tao thấy họ coi mình cũng chưa đến nổi tệ như thế, nên tao thấy cũng đở, tao cười. Vậy thôi.

Một thằng khác, có bệnh hôi miệng, như có vẻ lỉnh hội được ý tưởng bài học khá nhanh, nhưng không chắc lắm, bèn lên tiếng so sánh bằng cái hình ảnh gần gủi với nó hơn:

- Ông nói là tại vì họ coi mình chẳng ra gì, nên khi họ đánh mình, họ không cảm thấy ghê tay. Cũng giống như là nếu mình bị hôi miệng, thì khi mình có mở miệng nói thì mình cũng không thấy thối, phải ý ông nói vậy không?

Cả bọn còn đang miên man nghiền ngẩm về cái nhận định của ông Tiểu đội trưởng, nay nghe nó đưa ra một thí dụ tả chân khá cụ thể, khiến cho cả đám muốn lăn ra cười, nhưng ngại nó quê, nên đành ôm bụng cười bằng mắt. Một thằng khác, không thể tảng lờ trước một cơ hội quý báu, bèn nhảy vô chọc quê, dùng bằng ngôn từ của nó:

- Đúng rồi đó. Cũng giống như là nếu người của mày hôi mùi kít, thì dù mày có địt, mày cũng không thấy thúi?

Đang đau khổ ôm bụng nín cười, nay lại nghe một thằng khác cho thêm một thí dụ còn nặng mùi hơn lần trước, như một quả bóng đầy hơi đang căng phồng chỉ chực nổ tung, nay lại được bơm thêm hơi, thế là như cái kim chọt ngay một phát vào quả bóng, không sao dằn lòng được nữa, cả đám bèn cùng nhau cười rộ ầm lên thật là hả hê. Thằng bị chọc quê nghe thế, mặt xụ xuống, mắt đanh lại, trừng trừng nhìn sang thằng vừa mới nói. Như cảm thấy mình nói cũng hơi có mòi quá đáng, nó biết thân, tủm tỉm cười, đứng lên, bỏ đi nơi khác. Thấy không khí có mòi căng thẳng, cả bọn thôi không cười nữa, lần lượt theo nó đứng lên, tản mát, nhập chung với những nhóm khác.

Còn tôi, cái viển ảnh bị lọt ra ngoài trực thăng cứ chạy lòng vòng trong đầu cho nên tôi cũng chẳng hứng gì đi theo tụi nó. Để xua đi những ý nghĩ hắc ám, tôi rút trong ba-lô ra tập giai phẩm Văn để đọc cho quên đi nổi lo lắng trong lòng.

Thằng ngồi bên cạnh tôi, nhìn qua hỏi:

- Hê, đọc cái gì vậy mậy?

- Báo Văn.

- Báo gì?

- Ờ ... thì cái tờ báo tên Văn ấy mờ.

- Đưa tao coi thử coi.

Tôi chìa tờ báo cho nó. Lật qua lật lại vài trang, đọc được vài giòng, nhìn lên nhìn xuống một hồi, nó trả lại:

- (vt) Báo biết gì mà đọc nghe muốn nổ đom đóm.

Tôi cười đồng tình với nó:

- Ờ, tao cũng vậy. Đọc thì đọc chớ nhiều khi tao cũng hổng biết họ nói cái gì. Mà có lúc tao cũng hổng biết họ có biết họ nói cái gì không nữa?

- Dị mầy mua làm gì?

- Thì mua đọc chơi. Không bổ chiều ngang thì cũng bổ chiều dọc. Bữa nay đọc không hiểu thì ngày mai chắc hiểu.

Tôi không nói cho nó biết là tôi mua cái tập sách này là chỉ để nhắn nhủ với mấy cô nàng bán sách bên ngoài chợ Hàn rằng tôi cũng thuộc loại chữ nghĩa đầy bồ. Mua xong rồi nhưng tôi nào có để cho cô bán hàng bỏ quyển sách vào trong bao giấy đâu. Tôi còn cần phải cầm tập sách để lộ chữ “Văn” to tổ bố ra ngoài, lượn qua lượn lại mấy cái tiệm sách vài vòng, để cho các nàng biết tôi cũng thuộc loại am tường văn vỏ chứ chẳng phải là kẻ thường tình.

Như không muốn tiếp tục một câu chuyện vô bổ cho nó, nó bèn chuyển sang một đề tài khác, một chủ đề mà nó đang thổn thức:

- Hê, mày có bồ không?

Tôi trả lời:

- Bồ hở? ... Ồ, bồ thì tao có bồ nhiều lắm.

- (vt), mày lại dóc rồi. Có nhiều bồ sao tao không thấy đứa nào tới gặp mày dậy.

- Bửa nay đứa nào cũng bận hết. Phần thì đang đi học, còn lớp khác thì đang chuẩn bị đi thi hoa hậu trong tỉnh.

Tự dưng nó nhăn răng cười ngặt nghẽo y như rằng nó nghĩ tôi nói dóc. Thấy nó cười sặc sụa nên tôi cũng cười theo chẳng màng giải thích, rồi nhìn xuống tiếp tục đọc báo.

Thấy tôi bỏ ngang, nó bèn khịa chuyện:

- Mới đi mà tao đã thấy nhớ nàng quá mầy. Không biết chừng nào mới có dịp trở lại Đà Nẵng!

Nghe giọng nói của nó có vẻ như muốn trút bầu tâm sự. Tôi cũng tò mò muốn biết sự tình nên đóng tập sách, quay qua nó. Tôi chợt nhớ ra có lần tôi đã thấy nó đi chơi với một cô nàng nào đó ở trên phố bèn chọc:

- Tương tư rồi đó hở?

Được tôi ướm lời, nó đáp không suy nghĩ:

- Ờ, không biết giờ này nàng đang làm gì.

Tôi lên giọng kẻ cả:

- Thế con bé tên gì, con cái nhà ai, ăn học thế nào?

Nó như không lưu tâm tới câu nói pha trò của tôi:

- Nàng phụ mẹ bán hàng ở Chợ Trời trên Chợ Cồn.

Tôi nhớ ra cô gái đó:

- Có phải cô bé bán ở cái sạp chuyên buôn bán đồ lính đó không?

- Đúng đó.

- Thế là chuột sa hũ nếp rồi. Quen lâu chưa vậy?

- Vài tháng nay.

- Mi chưa?

Nó cười ruồi:

- Tay còn chưa dám cầm nữa mà mi với miết.

- Như vậy là mới chỉ mày với tao thôi, chớ chưa là anh với em?

- Mới tên thôi.

- Chỉ có tên thôi mà đã nhớ rồi à? Mà nhớ thì viết thư đi, viết cho nàng biết.

- Viết cái gì bây giờ?

- Thì viết là mày nhớ nàng lắm. Nhớ da diết. Nhớ đến mức tối ngủ khóc ướt cả ba-lô.

- Mày cứ chọc quê.

- Thế nói thật nghe. Mày nhớ cái gì nhất? Ở bên nàng, mày cảm thấy như thế nào?

Nó suy nghĩ:

- Tao nhớ nhất là khi đi chơi, mỗi lần áo dài của nàng bị gió thổi đụng vào chân tao. Nhất là mỗi khi tóc nàng bay qua đụng cái mặt tao. Tao thấy có một cái cảm giác ly kỳ lạ lùng hồi hộp lắm.

Tôi đề nghị:

- Đó, thì viết y như vậy đó. Nói là nhớ cái áo nàng quyện vào chân mày làm mày cảm thấy rung động. Nói là nhớ lần tóc nàng bám vào mặt mày làm cho người mày rạo rực xốn xang.

Như không hài lòng với lối diễu cợt của tôi, nó chưởi thề:

- (vt), mày chỉ được cái phá đám.

Nói xong, nó quay qua chỗ khác như không muốn nghe lối nói chuyện nhảm nhí, chọc ghẹo của tôi nữa. Tôi nhìn quanh, thấy không có gì hấp dẩn nên tiếp tục cúi xuống đọc sách. Đọc thì đọc, nhưng tôi không để ý tới những chữ trong sách. Trong đầu tôi vẫn lẩn quẩn mẫu đối thoại của nó. Tôi chợt nghĩ, hay là làm cho nó bài thơ con cóc chọc nó chơi. Làm xong, tôi đưa cho nó:

- Hê, lấy cái này gởi cho nàng. Bảo đảm nàng sẽ cảm động lắm.

Nó cầm lấy đọc:


Thôi!

mày ở lại,

tau đi về Thường Đức.

Rồi một mai khi thanh bình trở lại,

đất nước hết binh đao thì tau sẽ … thăm … mày.

...


Chưa đọc hết, nó liệng tờ giấy lại cho tôi rồi cười rũ rượi:

- (vt), thơ thiếc gì mà đọc lên như xuống dọng cổ.

Thấy nó không chịu, tôi bèn đưa bài khác cho nó:

- Mày không thích dọng cổ thì xài cái này vậy.


Thôi em nhỉ,

tôi tiếp tục lên đường đi chinh chiến.

Cảm tạ em

cho những buổi hẹn hò.

Và cho lần

tóc em vướng nhẹ trên môi.


Rồi từ đấy,

tôi mang theo niềm tin,

tôi mang theo hy vọng,

tôi mang theo ấm êm.

Tôi mang theo

mùi hương tóc hôm nào,

trên khắp nẻo đường đất nước.


Em biết chăng?

Tôi đã hôn em rồi đó,

... trên tóc thôi.


Chứ bố bảo,

tôi cũng không dám mi em.

Nhở em nổi quạu,

em bịch cho một phát sái quai hàm,

thì không còn đường nhai gạo sấy.


Tôi chăm chú theo dỏi khuôn mặt nó khi nó đọc. Đến đoạn cuối, nó nhăn răng cười sằng sặc.

- Khúc đầu thì nghe cũng được nhưng khúc sau thì nghe có vẻ phàm phu quá.

Đang tán phét, đột nhiên có nhiều tiếng trực thăng vang vọng trên không. Từ xa, một đoàn trực thăng như những đốm đen lấm chấm xuất hiện trên nền trời, đang bay dần về hướng chúng tôi. Không ai bảo ai, mọi người lục tục trở về vị trí của mình chuẩn bị lên đường.

Đoàn trực thăng vẫn nhắm hướng chúng tôi bay tới. Mối lo âu về cái viễn ảnh la hét, bắn nhau, súng nổ, đạn bay, máu chảy, kẻ rên, người chết, toàn những hãi hùng, sẽ xãy ra tại Quế Sơn, hay đâu đó, cũng có thể là Quãng Trị, trong vòng vài tiếng đồng hồ sắp tới, bắt đầu manh nha trong tôi. Đoàn trực thăng càng hạ thấp tiến gần, hình dạng chiếc máy bay càng rỏ nét lớn dần, nổi lo sợ càng tăng thêm bội phần. Mặc dầu tôi đã cố gắng hết sức đuổi xua những ý nghĩ không hay đang chiếm ngự trong đầu, tôi cũng không khỏi phân vân, liệu mình có may mắn được thêm một lần nữa, hay không?

Theo thói quen mỗi lần xuất quân, tôi bấm nút tháo băng đạn chiến[2] ra khỏi súng. Dùng ngón cái ấn vài lần xuống dãy đạn đang nằm thứ tự bên trong để lường xem lực đàn hồi của lò xo có đủ mạnh để đẩy đạn vào nòng, xuông xẻ hay không. Thấy không có gì lạ thường, tôi lật ngược băng đạn sang đầu băng bên kia và lập lại động tác vừa rồi. Thấy không có gì trở ngại, tôi gắn băng đạn trở lại vào súng. Một tiếng “cách” vô hồn của kim loại va chạm khẻ vang khô khan. Băng đạn đã lọt hẳn vào ngoàm khoá chặc.

(Xin đọc tiếp bài “Hậu Cứ: Thường Đức”)

Phụ chú:
  1. Giày lính. Phiên âm từ tiếng Pháp “bottes de saut” - Có nghĩa là giày của lính Dù - tiếng thông dụng là giày lính. Dùng để phân biệt với giày bố do Quân Nhu cung cấp.

  2. Trong bọn lính chúng tôi, hầu như người nào cũng có 1 băng đạn chiến. Ấy là 2 băng đạn, loại băng 20 viên, được cột chung ngược đầu với nhau để dùng khi tấn công. Với cách cột này, khi xung phong, nếu 1 băng đã bị bắn hết đạn, chúng tôi chỉ cần tháo ra, quay ngược chiều, gắn băng đạn bên kia vào, tất cả chỉ xảy ra trong vòng vài giây. Còn bằng không, trong khi vừa chạy vừa la vừa tránh đạn vừa đổi băng, mà phải mò mẩm trong túi đạn để móc ra 1 cái băng khác để thay, sự chậm trể có thể mang về những hối tiếc.