NguoiLinhGiaXaQueHuong

Người Lao Công Đào Binh Tên Sơn


Thường Đức là tên của một quận lỵ xa nhất về hướng tây của tỉnh Quảng Nam. Hầu hết phần đất của quận bao gồm một phần của dãy Trường Sơn với những núi, núi, núi và núi. Một trong những thôn xã trù phú nhất của Quận tên là Hà Tân nằm tựa trên mũi sông nơi giáp lưu của con sông Côn đổ ra con sông Vu Gia.

Trên sườn đồi, về hướng tây, ở đầu xã là Trụ sở văn phòng Quận và cũng là Chi Khu Thường Đức.

Giáp lưng Quận, trên đỉnh đồi là hậu cứ của Tiểu Đoàn 79 Biệt Động Quân (TĐ79/BĐQ). Đây là một căn cứ do quân đội Mỹ thiết lập trước đây dùng làm nơi xuất phát của những đơn vị Nhảy Toán bao gồm cả Việt và Mỹ. Ngày 14 tháng 11 năm 1970, căn cứ được chuyển giao cho TĐ79/BĐQ. Ngoại trừ dăm ba lần Tiểu Đoàn về đây dưỡng quân sau những cuộc hành quân ở những vùng khác trên khắp Quân Khu 1, mỗi lần về nghỉ khoảng hai ba tuần. Hầu như quanh năm, Tiểu Đoàn chỉ để lại độ một Trung Đội, khoảng vài mươi người, để quản trị hậu cứ.

Trên một ngọn đồi nhỏ kế cận, về hướng tây, gần như cách biệt với Tiểu Đoàn là nơi đóng quân của Đại Đội 1. Vòng đai phòng thủ cũng như nơi ăn chổ ở của toàn thể Đại Đội là những lô-cốt, cách khoảng được nối liền bằng con giao thông hào. Nằm giữa ngọn đồi là một căn nhà tôn, vách lá, dùng làm chỗ văn phòng Đại Đội. Bên ngoài văn phòng có trồng năm ba cây làm cảnh. Dưới sức nóng hừng hực của mặt trời, màu xanh của lá cây trên một giải đất vàng vỏ chỉ toàn những sỏi đá, mang lại một ít tươi mát cho những thằng lính xa nhà như chúng tôi.

Phía bên trái văn phòng Đại Đội là một căn nhà tôn không vách dùng làm nhà ăn. Ngoài giờ ăn, đây là nơi duy nhất mà bọn lính chúng tôi dùng để trốn nắng trong những buổi trưa hè oi ả.


... một trưa hè năm 1973


Trời nắng như thiêu đốt trên ngoạn đồi bản doanh Đại Đội. Hầu hết mọi người đều xuống dưới làng. Những ai có gia đình ở dưới đó thì được về nhà. Đứa nào thuộc loại con bà xơ nhưng có tiền thì cũng xuống làng vào quán ăn uống đấu hót. Còn đám con bà xơ, thuộc loại bần cố nông, còn lại như chúng tôi, khoảng năm bảy đứa, thì tụ tập ở căn nhà ăn ngồi trốn nắng và tán dóc trên những cái bàn ghế làm bằng những thanh gỗ lấy ra từ những thùng chứa đạn. Một thằng lên tiếng hỏi thinh không:

- Đứa nào có chuyện tiếu lâm nào hay hay kể nghe chơi?

Cả bọn ngồi im không có thằng nào trả lời. Một đứa, tương đối có khả năng nói chuyện diễu hơn những đứa khác bèn nói :

- Tụi mày có nghe cái chuyện “Thỏi xúc xích của cái bà góa phụ với cái ông xã trưởng” hồi nào chưa?

Những giọng khác hỏi lại :

- Có phải cái chuyện ông xã trưởng đòi ăn cái khúc xúc xích ở trên cái bàn thở đó không?

- Có phải cái chuyện này mấy ông Huấn Luyện Viên ở Dục Mỹ kể hở?

Đứa tính kể chuyện ầm ừ :

- Ờ, chắc chuyện đó đó.

Cả đám cười rộ lên rồi có tiếng gạt ngang:

- Thôi, kể chuyện khác đi mày. Mỗi lần nghe cái chuyện đó mà tao thấy ớn cho cái thằng nhỏ quá. Ghê bỏ mẹ.

Thằng tính kể chuyện bị cụt hứng nhăn răng cười thôi không nói nữa.

Một chặp sau, như nhớ ra chuyện gì nó bèn nói:

- Được rồi, có chuyện này hay lắm để tao kể cho tụi mày nghe.

Sau khi biết chắc ai cũng muốn nghe, nó bèn kể:

- Tụi mày còn nhớ hồi mình còn đóng ở Quân Đoàn không? Bữa nọ, có chuyện, tao phải đi qua Bộ Chỉ Huy ở Non Nước làm giấy tờ. Trên đường về, khi xe lam sắp lên trên cầu Nguyễn Hoàng thì bị chặn lại. Phía trước có một cái xe Hồng Thập Tự với một đám người đứng bao chung quanh. Tò mò, tao cũng đi tới coi thử chuyện gì cho biết. Tới nơi, chen vô thì tao thấy có một cô bé nữ sinh khá xinh đẹp, quần áo ước sủng nước, đang ngồi trên cái băng ca thút thít khóc. Tao bèn hỏi người đứng bên cạnh :
- Chuyện gì vậy?
Người đó chỉ cô gái rồi nói :
- Nghe nói cô này nhảy xuống cầu tính tự tử sao đó, nhưng may sao có cái cậu kia nhảy xuống cứu kịp, chớ không thì ngủm cù tèo rồi.
Vừa nói người này vừa chỉ về hướng một cậu thanh niên, quần áo ướt mèm, mặt mủi quạu quọ, từ dưới bờ ruộng đang hùng hổ leo lên lề đường nhắm về hướng đầu cầu đi tới.
Nhằm lúc đó, có một đám học trò đang đi xuống. Khi tới gần nhóm học sinh thì nó dừng lại nhìn chằm chặp từng đứa như tìm kiếm ai. Nhìn một lúc như nhận không ra ai, nó bực mình giận dử la lớn :
- (vt), hồi nãy thằng nào xô tao.

Tự nãy giờ lắng nghe câu chuyện một cách chăm chú, bây giờ cả đám mới la lên cười rộ một cách thích thú.

=<>=

Đang đấu hót chợt có đứa chỉ tay về hướng Tiểu Đoàn ở bên kia đồi :

- Ai đi về giống như ông Thường Vụ thì phải?

Chúng tôi cùng nhìn theo về hướng chỉ tay của nó. Phía bên kia đồi Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn, ông Thường Vụ Đại Đội đang đi về, theo sau ông có một nhóm người.

Không ai hỏi, một đứa ra vẻ rành chuyện giải thích :

- Chắc tụi lao công đào binh (LCĐB).

Một đứa khác hỏi lại :

- Sao mầy biết?

- Hồi nảy tao nghe ông Thường Vụ nói. Ổng nói tý nữa ổng qua Tiểu Đoàn nhận mấy người lao công đào binh về làm tạp dịch hay tải đạn gì đó cho Đại Đội.

- Rồi họ có theo mình đi hành quân không?

- Chắc vậy. Nghe nói họ bắt mấy người lao công đào binh đi tải đạn.

Một đứa chặc lưởi :

- Khổ quá hở!

- Thế có cho họ mang súng không?

- Sao mà mày khờ quá vậy. Giao súng cho nó rồi lở nó bắn mày rồi trốn đi thì sao.

Cả bọn im lặng theo dõi nhóm người đang tiến dần về hướng Đại Đội. Có khoảng mươi người lẽo đẽo đi theo sau ông Thường Vụ. Khi họ đến trước văn phòng đại đội, ông Thường Vụ ra lệnh cho họ tập họp, dặn dò họ dăm ba điều gì đó rồi ông ra hiệu cho họ tan hàng đi về phía nhà ăn, nơi chúng tôi đang ngồi, để tránh nắng. Chắc cỏ lẽ họ là những người LCĐB vì trông họ ăn mặc đủ loại quân phục thường phục, giày dép lộn xộn.

Thấy chúng tôi đang hút thuốc, một người có dáng dấp “dân chơi tỉnh lẻ”, trông có vẻ lớn tuổi hơn chúng tôi, đến gần.

- Đàn anh cho em xin một điếu thuốc.

Mấy cặp mắt hướng về chỗ tôi, tôi cũng bắt chước họ nhìn theo hướng đó nhưng chẳng thấy ngoe nào nữa trừ tôi, tránh không được, tôi miễn cưỡng móc túi lấy gói Bastos mời vị này một điếu. Thấy vậy, mấy người khác cũng tiến tới chìa tay xin thuốc.

=<>=

Nó là người đến xin thuốc cuối cùng. Lúc này, tôi mới có dịp quan sát nó một cách rõ ràng hơn. Khi nhóm người LCĐB còn đang tập họp trên sân Đại Đội, tôi nhận thấy có một thanh niên ở vào trạc tuổi của chúng tôi. Trông nó có vẻ lạc lỏng và cô đơn trong nhóm người này. Nó mặc một chiếc áo nhà binh đã củ rích và có phần tơi tả. Chân nó mang đôi dép nhựt đến gần đưa tay xin thuốc. Trông nó không sạm nắng như chúng tôi hay những người LCĐB khác. Mặt mũi nó trắng trẻo như thư sinh. Tướng tá nó vó vẻ hiền hậu con nhà lành. Nhìn nó, không ai nghĩ rằng nó đã đi lính, huống hồ chi là đã đào ngũ rồi bị bắt để thành lao công như thế này.

Vừa chìa điếu thuốc đưa cho nó tôi vừa hỏi :

- Tên gì vậy mậy?

Nó đưa tay nhận điếu thuốc lá rồi trả lời.

- Dạ, em tên Sơn. Nó nhã nhặn trả lời.

Tôi không ưa lắm cái cách xưng hô “anh anh em em” bá vơ ngay từ khi còn ở ngoài đời. Tôi càng thấy chướng lỗ tai khi nghe cái lối xưng tụng như thế này ở trong quân đội. Tôi thấy “trung sĩ em em; đại úy em em; ông thầy em em ...” nghe nó không phải lịch sự nhưng mang hơi hướm hèn hạ và cầu cạnh, không thích hợp với khẩu khí và tư cách của một quân nhân.

Tôi cũng nhận thấy không có một ông quan nào ra vẽ từ chối danh xưng “em em” lộ liểu như thế.

Như một số lớn khác trốn nhà đi lính nên hay dùng cách đổi giấy khai sinh, cạo tên, đổi tuổi .v.v... Tôi không nghĩ tên Sơn là tên thật cúa nó.

Mồi điếu thuốc xong, có lẽ nó cảm nhận được sự khó chịu của tôi nên nó bèn lảng sang một góc khác. Nhìn nó ngồi một mình quay lưng trông về dãy núi xa xa, tôi thấy nó thật là cô đơn cũng chẳng khác gì chúng tôi cho mấy.

Một lát sau, ông Thường Vụ trở lại kêu họ tập họp rồi dẫn những người LCĐB đến một lô-cốt kế văn phòng Đại Đội, chắc là chỉ cho họ chỗ ngủ.

=<>=

Đến chiều, sau khi dùng cơm tối xong, trời hãy còn sáng nhưng chúng tôi không quen ai ở Thường Đức nên cũng chẳng tha thiết xuống dưới làng làm gì, thành ra cứ tụ họp quanh quẩn ở cái nhà ăn.

Thấy bọn tôi la cà ở nhà ăn nó bèn lân la qua làm quen. Một thằng trong bọn tôi khi nhìn thấy nó đang đi dần tới bèn đứng dậy đi về phía cái hầm của nó. Một chặp sau trở lại, trên tay nó cầm theo một đôi giầy bố. Đến nơi, nó đưa cho thằng Sơn :

- Nè, lấy cái này mang đở đi mày. Ở đây toàn là đá không à. Đi dép nhựt chịu sao nổi.

Thằng Sơn cảm động ra mặt, đưa tay ra đón lấy đôi giầy bố.

- Ê! Mà mang đôi giầy này vô thì mày không được tới gần tụi tao à.

Thằng Sơn đang loay hoay sỏ chân vô giầy nghe nói như thế bèn ngước lên nhìn về hướng của giọng nói vừa phát ra có vẻ phân vân lẫn chút thất vọng.

Đứa ngồi bên cạnh thằng Sơn bèn vỗ vai nó giải thích :

- Nó nói giỡn đó. Chắc mày cũng biết là giầy bố nó hôi kinh khủng như thế nào.

Thằng Sơn lúc này mới vỡ lẽ cười hì hì.

Từ khi biết nó đến giờ, đây là lần đầu tiên tôi thấy nó cười một cách trọn vẹn.

=<>=

Trung Đội 3 là nơi có nhiều con bà xơ, độc thân vui tính nên nó hay la cà đi theo. Vì cùng tuổi tác nên chúng tôi dễ hòa hợp chơi thân với nhau. Chúng tôi cũng không so đo nên không ai trong chúng tôi phân biệt lao công đào binh hay lính tráng. Nó cũng biết thế nên lúc nào rãnh rỗi thì nó đi kiếm chúng tôi. Ngược lại, đi đâu chơi, chúng tôi cũng hay dẫn nó đi theo.

Từ đó, nó theo Đại Đội 1 đi hành quân khắp nơi trên Quân Khu 1. Mang tiếng là đi tải đạn nhưng thật ra những người LCĐB còn mang đạn ít hơn chúng tôi. Còn nó, có lẽ nhờ vào tính tình dễ mến, nên người ta chỉ giao cho nó mang một phần tiếp liệu nên cũng tương đối nhẹ nhàng lắm.


Trận Thường Đức - Ngày N - Ngày 28 tháng 7 năm 1974


Trời chưa sáng nhưng hậu cứ đã choàng dậy trong cơn mưa pháo. Chỉ trong vài tiếng đồng hồ, hai ngọn đồi của hậu cứ Tiểu Đoàn đã tiếp nhận hằng trăm, có thể hằng ngàn đạn pháo cũng không chừng. Trời vừa hừng sáng, khi những bóng dáng của cộng quân, lũ lâu la cô hồn đi gieo tang tóc, xuất hiện rồi kêu réo xung phong. Tôi có dịp nhìn quanh địa thế. Quang cảnh thật là điêu tàn. Tất cả mọi vật như thay đổi. Hình như không một viên sỏi, hòn đá nào mà không bị lãnh đạn ít nhứt cũng một lần.

Cùng chung với số phận những người dân Thường Đức, nó cũng bị ném quăng vào trong trận chiến. Tự dưng, nó cũng phải hứng chịu những nghiệt ngã ngoài ước muốn của nó.

=<>=

Trước khi nói về trặn Thường Đức, cũng cần nói thêm qua về tình trạng quân số tham chiến của Đại đội 1 trong Trận Thường Đức. Trên đường trở về trấn thủ Thường Đức khi đang hành quân tại tỉnh Quãng Tín, lúc đoàn quân xa đi ngang BCH Liên đoàn 14/BĐQ đang đóng tại Núi Đất, mặc dù tình trạng quân số của Tiểu Đoàn đã bị hao hụt, nhưng Tiểu Đoàn được lệnh phải để lại cho Liên đoàn xử dụng toàn thể Đại đội 2 và thêm Trung đội 2 của Đại đội 1.

Chắc có lẻ Sư đoàn 3 hoặc Quân Đoàn hứa hẹn, yểm trợ tích cực cho TĐ79/BĐQ, trong trường hợp Tiểu đoàn bị tấn công. Hoặc là, Quân Đoàn I cho rằng việc cộng quân tập trung chung quanh Thường Đức chỉ là một đòn nghi binh, nên đưa Tiểu đoàn về để phòng hờ chứ không ý đánh đấm. Hay là Quân Đoàn đánh giá cao khả năng chiến đấu của vài Đại Đội của TĐ79/BĐQ, thừa sức chận đứng sư đoàn việt cộng. Có vậy, cho nên Liên Đoàn mới giử lại hơn một phần ba quân số tác chiến của Tiểu đoàn trước khi trở về trấn giữ Thường Đức.

Tôi vẽ vời ra mẩu đối thoại chung quanh cái quyết định để lại Đại đội 2 và Trung đội 2 của Đại đội 1 trong một tình thế khá nghiêm trọng như lúc này:

Trung Tá Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 14 Biệt Động Quân nói với Thiếu Tá Hà Văn Lầu, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 79 Biệt Động Quân.
- Toa để lại cho moa 50 thằng lính nghen.
- Thưa Trung Tá, tại sao?
Tr/T Liên Đoàn Trưởng trả lời :
- Thì để giữ an ninh cho Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn.
- Trình Trung Tá - Tụi này mới đánh ở Tam Kỳ về, quân số bị thiếu hụt, mà lại để ở đây 50 thì làm sao tụi tui trám được cái khoảng trống đó? Hơn nữa, tụi nó kéo về cả sư đoàn thì làm sao tôi giử được Thường Đức với chừng lính nầy?
Tr/T Liên Đoàn Trưởng thân mật vỗ vai :
- Có thằng Phòng 7 ở trên đó, nó sẽ trám vào cái chỗ trống đó. Toa cứ yên trí, có gì xảy ra, thằng Sư đoàn 3 sẽ lên tiếp toa ngay. Tụi moa không bỏ toa đâu.
Thiếu Tá Lầu rời phòng chỉ huy đến gặp Đại Úy Sinh, Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 79 Biệt Động Quân, đang đứng bên ngoài với một số sĩ quan của Tiểu Đoàn.
- (vt) Liên Đoàn bắt mình phải để lại đây năm chục. Ông nghĩ để Đại đội 2 lại được không?
Đ/U Sinh thắc mắc :
- Sao lại phải để lính ở đây? Mà để ... để làm gì, Thiếu tá?
- Liên Đoàn cần lính để giữ an ninh.
Đ/U Sinh đảo mắt nhìn quanh những thôn xóm lân cận chung quanh đồi, khẻ nhíu mày nhưng cũng điềm tỉnh cố gắng vớt vát :
- Để thằng 2 thì được nhưng cũng chỉ có chừng bốn mươi. Thiếu Tá hỏi ở trển có chịu bốn mươi không, hết mẹ nó một Đại Đội rồi.
- Không được, họ đòi năm chục. Nếu mình để Đại đội 2 ở đây thì thằng 3 phải dăng mỏng ra để trám chỗ thằng 2. Vậy lấy thêm một Trung đội của Đại đội 1 vậy, được không?
Đ/U Sinh ngập ngừng nhấn mạnh vai trò cực kỳ quan trọng của Đại đội 1:
- Thiếu Tá biết, thằng 1 nó nằm một mình ở cái đồi bên cạnh. Nếu bị đánh, nó là cái mục tiêu cần phải chiếm trước bằng bất cứ giá nào. Lấy được Đại đội 1 rồi, nó sẽ dùng nơi nầy làm áp lực uy hiếp Tiểu Đoàn. Mất Đại đội 1 thì coi như mất Tiểu Đoàn, mà mất Tiểu Đoàn là mất quận Thường Đức.
Th/T Lầu bám vào lời hứa của ông Liên Đoàn Trưởng.
- Tao cũng biết vậy, nhưng mà thằng 3 bị trải mỏng quá. Mà lệnh là lệnh. Thôi ông nói thằng Tẩm để lại 1 Trung đội. Có gì, chắc họ không bỏ mình đâu.
Biết nói thêm củng không thay đổi được quyết định, Đại Úy Sinh kêu Trung Úy Tẩm, Đại đội Trưởng Đại đội 1, lại :
- Mình phải để lại đây 1 Trung đội. Mày coi thằng nào được thì kêu nó xuống xe ở lại đây.
Không một ông Đại đội Trưởng nào biết có cả sư đoàn cộng quân sắp đánh Thường Đức. Nghe thế, Trung Úy Tẩm suy nghĩ: “Trung đội 1 thì có toán của thằng Sơn, Trung đội 3 thì có tiểu đội thằng Khâm.”, bèn quyết định :
- Thôi - Để Trung đội 2 ở lại đây với Liên Đoàn.

Theo hệ thống tổ chức, Đại đội 1 gồm có tất cả 4 trung đội. Trung đội 1, 2 và 3 là những trung đội tác chiến. Trung đội 4, còn có tên là trung đội công vụ, hoặc trung đội súng nặng, bao gồm một số quân nhân chuyên về súng cối. Số còn lại với những khả năng chuyên môn đặc biệt khác, có nhiệm vụ hổ trợ cho BCH Đại đội. Vì không thường đụng trận trực tiếp, nên Trung đội 4 chỉ được trưng dụng khi nhu cầu chiến trường đòi hỏi cấp bách.

Bình thường, quân số tác chiến của mỗi một trung đội vào khoảng mươi người. Sau lần hành quân tại Quãng Tín, mỗi trung đội chỉ còn lại từ khoảng 8 đến 10 người. Nay lại phải để lại cho BCH Liên đoàn một trung đội tác chiến, Đại đội 1 lãnh nhiệm vụ trấn thủ Thường Đức với quân số chưa tới 30 người, kể cả trung đội công vụ. 30 quân nhân có nhiệm vụ phòng thủ một vòng đai bao gồm xấp xỉ 25 cái lô-cốt. Mỗi một lô-cốt cách nhau trung bình khoảng 10, 15 thước.

Vào thời cực thịnh, khi quân đội Mỹ còn trấn đóng nơi đây, vòng đai phòng thủ của Đại đội 1 được bảo vệ với khoảng hơn 100 tay súng.

=<>=

Buổi tối trước ngày Thường Đức bị tấn công, cũng là ngày mà Trung đội 1 đến phiên trực có bổn phận đi ra nằm tiền đồn bên ngoài phạm vi phòng thủ của Đại đội 1.

Ngay từ đợt pháo kích đầu tiên, Trung đội 1 đã báo cáo về tình trạng bi quan của họ. Mặc dù có lệnh rút về căn cứ, nhưng họ không làm sao có thể di chuyển được khi toàn cả đồi Thường Đức ngập vùi trong cơn mưa pháo. Mãi đến khi cộng quân dứt pháo cho quân tấn công vào tiền đồn, đến lúc ấy Trung đội 1 mới có cơ hội thoát ra nhưng không thể rút lui về bằng cách đi trở lại theo con đường mòn xuyên ngang hàng rào phòng thủ nên trung đội 1 phải tạt xuống hướng nam, nơi đang có một đơn vị Địa Phương Quân/Nghĩa Quân trú đóng. Kể từ đó, Trung đội 1 bị kẹt luôn ở bên ngoài, và chiến đấu chung với đơn vị bạn cho đến khi cả hai bị tràn ngập.

Giờ đây, Đại đội 1 vốn đã trải quân quá mỏng cho một phòng tuyến quá dài, nay lại thiếu đi trung đội 1, toàn thể Đại đội 1 bây giờ chỉ còn khoảng 20 mạng. Với một quân số ít ỏi, mà phải chịu trách nhiệm một vòng đai phòng thủ quá lớn, lại phải đương đầu với một lực lượng địch quân đông đảo hằng gấp mươi lần với vũ khí dồi dào bất tận.


Trận Thường Đức - Ngày N+?


Chiến trường lúc này đang im lặng. Sự im lặng của bắt đầu một màn tấn công tới, hoặc cộng quân đang tơi tả nghĩ xã hơi.

Tôi đang ngồi bệt dưới giao thông hào mơ màng nghĩ tới những cô gái mà tôi có hân hạnh đựơc quen biết.

Tôi tưởng tượng, tôi trong bộ quân phục tác chiến, bám đầy bụi đường, còn vương mùi thuốc súng, đưa các nàng đến quán cà-phê Thạch Thảo ở Đà Nẵng vào buổi hoàng hôn. Trong ánh đèn màu lung linh huyền hoặc với tiếng nhạc êm ái thoát ra từ giàn âm thanh Akai, bên tách cà-phê phin pha một ít rượu rum, êm ái cầm tay các nàng, tôi sẽ kể cho các nàng nghe những màn đánh nhau ngoạn mục còn hơn cả những phim chiến tranh của Mỹ, và còn trội hơn cái tiểu đội của ông Vic Morrow trong show Combat rất nhiều. Cái tiểu đội của ông Vic Morrow chẳng thấm tháp gì so với những chàng Biệt Động Quân thuộc Đại Đội 1 Tiểu Đoàn 79. Chúng tôi ngon đến độ mà đạn cũng phải khớp, khi nó bay tới gần mà thấy Biệt Động Quân là nó hoảng hồn rơi xuống đất nghe lụp bụp thấy tội lắm.

Đạn cứ sủi vào đất kêu lụp bụp từng chập. Từng tiếng đạn phòng không quen thuộc từ trên cao độ ở dãy núi Pla-tô ở hướng nam phía bên kia sông bắn sang. Đạn trúng đất kêu lụp bụp lụp bụp. Tôi giựt mình nhìn quanh cầu nhầu :

- Mẹ! Đạn ở đâu mà dư đến độ dùng cả đạn phòng không mà bắn sẻ như thế!

Tiếng súng mỗi lúc mỗi chát chúa dần dần tiến về vị trí của tôi. Tôi đang kiếm cách thu mình cho nhỏ hơn cầu trời cho tai qua nạn khỏi thì nghe tiếng chân lụp xụp chạy tới. Tôi vội liếc ngang qua coi thử đứa nào thì thấy thằng Sơn thở hổn hển lom khom chạy đến. Đến chỗ tôi ngồi nó ngồi thụp xuống. Tôi tính cằn nhằn nó ở đâu thì ở chỗ đó chứ chạy đi chạy lại làm gì để cho nó bắn thì nó đã vội nói :

- Còn thuốc cho tao xin một điếu?

Nhìn nó hôm nay không ai nghĩ nó là LCĐB mà rõ ràng là lính Biệt Động Quân thứ thiệt. Trên đầu nó mang một cái nón sắt, chắc lượm được của ai đó. Cũng giầy, cũng bộ đồ trận, trông nó cũng ngầu lắm. Thay vì mang súng M-16 như chúng tôi thì nó lại cầm một cây AK với mấy cái băng đạn AK đeo tòng teng trước bụng.

Thấy tôi nhăn mặt nhìn khẩu AK của nó, nó nhăn răng cười phân trần :

- Không biết cái nước thịt của tụi nó chui vô kẽ nào mà chùi hoài cả ngày hôm qua tới giờ mà nó vẫn còn thúi.

Tôi hỏi nó :

- Sao không lựa cái nào sạch sẽ mà xài, chớ lấy cái này làm gì?

- Cái này là sạch lắm đó mày. Cả một đống súng lượm vô, cây nào cây nấy cũng dính đầy nước thịt xám xì, thấy mà muốn mửa.

Tôi nhớ lại, hôm trước, vì đạn đã cạn dần mà không có tiếp tế; để có thể duy trì khả năng chiến đấu, tiểu đội Trinh Sát của Đại Đội 1 do Trung Sĩ Khâm chỉ huy đợi đêm tối mò ra ngoài hàng rào phòng thủ. Họ dọ dẫm mò tới những nơi mà xác cộng quân bị bỏ lại để thu lượm súng ống của địch hầu có thêm vũ khí chống cự với địch quân. Dưới cái nóng cháy người của mùa hè, ban ngày cũng như ban đêm, những xác chết của cộng quân bị sình chướng và rục nát tiết ra những giòng nước nhờn nhờn xền xệt mang một màu xám xịt. Chúng tôi không biết nên gọi cái loại nước này là nước gì nên cứ gọi đại nó là nước thịt. Chất nước xám từ trong xác chết của cộng quân chảy ra bám vào những súng ống đạn dược nằm bên cạnh tử thi.

Đêm đó, sau khi nghe tin tiểu đội Trinh Sát của Khâm trở về, tôi có mon men lên xem coi thử có cái nào còn xài được thì đem về xử dụng. Chưa tới nơi, mùi xú uế từ trong đống vũ khí toát ra làm tôi muốn nôn mửa. Tôi đã ngửi cái mùi này từ mấy ngày qua nhưng chưa bao giờ có cái bất hạnh gần gủi như hôm nay. Có thể nói, trên đời này, không có một mủi hôi mùi thúi nào mà có thể qua mặt được mùi hôi này. Nó không những thúi mà nó còn làm cho người ngửi phải rùng mình và nghẹt thở nữa.

Tôi mở bao thuốc lá đưa cho nó một điếu. Cầm điếu thuốc trong tay rồi mà nó vẫn còn chần chừ chưa chịu đi. Thấy nó liều mạng chạy xuống đây xin thuốc, còn tôi thì lúc nào cũng thủ sẵn một cây thuốc lá trong ba-lô, vả lại, còn biết sống chết bao lâu nữa nên tôi đưa hết bao Bastos còn lại cho nó. Nó bèn cầm lấy lom khom chạy ngược trở về phòng tuyến của trung đội 3. Vừa thấy nó di chuyển trong giao thông hào, bên kia, đạn đại liên phòng không lại ồn ào bắn sẻ sang.


Trận Thường Đức - Ngày N+10 – Ngày 7 tháng 8 năm 1974


Trời vừa hừng sáng, từng đợt pháo kích đã mở màn cho một ngày mới. Cường độ pháo kích hôm nay có phần dữ dội hơn những ngày trước, báo hiệu cho thấy có sự thay đổi chiến thuật.

Sau pháo kích, cộng quân bắt đầu dùng pháo bắn trực tiếp vào những lô-cốt hoặc giao thông hào nơi Đại Đội 1 phòng thủ. Những căn hầm nào còn chống chỏi được cho tới hôm nay cũng đã bắt đầu rung chuyển. Từng đoạn giao thông hào dần dần bị san bằng. Nơi Trung Đội 3 phòng thủ là nơi chiến đấu quyết liệt nhứt nên trở thành là mục tiêu chính cho những khẩu đại bác từ bên kia sông bắn sang.

Bị pháo kích, tuy có hãi hùng nhưng cũng còn đở hơn là bởi vì đạn rớt khắp nơi nhưng không lọt một chổ nhất định. Chỉ khi nào xui gặp phải trái đạn rớt kế bên mình, thì lúc ấy thân xác mới bị rúng động vật vã. Tuy quằn quại nhưng cơ thể còn có cơ hội phục hồi vì viên đạn kế tiếp có thể rớt ở nơi khác nên thân thể có đủ thời giờ trở lại bình thường. Còn bây giờ, đạn nó cứ nhắm chổ mình bay tới vùn vụt, hết viên này tới viên kia. Chỉ những tiếng nổ và sức ép của nó không thôi, cũng đủ làm cho toàn thân co rúm tê liệt kéo dài cho đến khi dứt pháo. Không ngôn ngữ nào có thể diễn tả được nỗi kinh hoàng khi bị đặt vào trong hoàn cảnh bất hạnh này.

Mỗi một tiếng đạn nổ là mỗi lần lồng ngực như muốn vỡ tung ra. Sức ép công phá của trái đạn đè bẹp xuống lồng phổi khiến không làm sao thở nổi. Tới khi thở được thì bụi cát ùa nhau bay vào trám đầy trong cuống họng. Tai ù, máu mũi chảy, mắt mở không ra. Nếu có cố gắng hé ra được thì cũng chẳng thấy gì vì bụi đá quay cuồn trên không che khuất hẳn mọi hình mọi vật.

Từng quả rồi từng quả, những trái pháo liên tục nổ trên đầu tuyến phòng thủ của Trung đội 3.

Khi màn pháo phủ đầu vừa dứt. Khi đám bụi mù cũng vừa tan thì cộng quân bắt đầu tấn công. Bóng họ lố nhố dò dẫm sang từ phía bên phòng thủ của Trung Đội 1 đã bỏ trống từ cả tuần nay. Từ triền đồi bên hướng tây, một cánh quân khác cũng bắt đầu tiến sang.

Đợi khi cộng quân vào hẳn trong tầm tác xạ, bên này phe ta bắt đầu khai hỏa. Mặc dầu lúc này cộng quân có phần lợi thế hơn những lần trước nhờ vào một số chướng ngại vật của ta như một số hầm hố mà mình đã bỏ trống vì không còn khả năng trải rộng phòng tuyến.

Tuy nhiên, như những lần trước, họ đã phải chùn bước trước sự phản công mãnh liệt của Trung đội 3. Nói rằng Trung đội 3 bởi đó là tuyến phòng thủ của Trung đội 3 chứ thật ra chỉ còn có năm ba tay súng của tiểu đội trinh sát của Tr/S Khâm.

Có lẽ bên kia địch quân cay cú vì cứ bị bên ta đẩy lui. Từ trên đỉnh núi bên kia sông, họ nhận thấy chiến thuật phá hầm bằng cách cho bắn trực xạ có hiệu quả. Từ trên cao độ, cộng quân cho pháo bắn thẳng xối xả vào những hầm hố nào còn nhô ra trên mặt đất. Gồng mình hứng trận đòn thù. Lần này chúng tôi có cảm giác họ muốn chôn sống những ai còn lại. Họ muốn dùng hầm hố và giao thông hào làm mồ chôn chúng tôi.

Dù có thành đồng cốt sắt cũng không làm sao có thể đứng vững trước sự tàn phá khủng khiếp này. Lần lượt, từng cái hầm bị sụp đổ. Từng đoạn giao thông hào bị san bằng. Một trái pháo nổ ngay trên bờ hầm của Trung Úy Tẩm, Đại Đội Trưởng Đại Đội 1, máu từ đầu ông chảy xuống che khuất một bên mắt.

Trên sân đồi, từng cột đất được móc lên quăng tung tóe trong không gian. Trong bụi mờ, thằng Dũng, thằng Đức rồi Tr/S Khâm khập khểnh theo giao thông hào đi xuống. Nhìn họ xuống tôi biết rỏ cái ngày sẽ đến rồi phải đến.

Khi thấy rõ tiểu đội Khâm đã rút về sau, cộng quân bèn ngưng pháo cho bộ binh tiến chiếm. Bóng cộng quân bắt đầu lố nhố từ bên vị trí của trung đội 2 dò dẫm tiến sang. Chủng tôi, chỉ còn lại vài thước phòng tuyến bên này chia nhau đâu lưng bố trí.

Tiếng thằng Tư trong máy báo cáo về Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn tình trạng của Tr/U Tẫm và yêu cầu rút về bên đồi của Tiểu Đoàn cố thủ.

Năm ba tên cộng quân nhảy lên thụp xuống mò tới

Khi cộng quân chỉ còn vài thước cách cái hầm của Trung đội 3 vừa mới xập. Đột nhiên, từ bên trong hầm, một loạt đạn đại liên M60 bắn ra. Vì không ngờ còn có người trong hầm, cho nên một số bị trúng đạn kêu la chí chóe, một số khác vội lùi lại phía sau.

Đạn đại liên vẫn cứ nổ dòn; 3 viên - 2 viên; từng hồi một.

đùng đùng đùng - đùng đùng ... đùng đùng đùng - đùng đùng ...

Chúng tôi cùng nhìn nhau phân vân không biết đứa nào còn kẹt lại ở trong đó.

Bổng có tiếng la :

- Chắc thằng Sơn lao công đào binh?

Trung Sĩ Khâm tính dợm người lên, đi trở lại để phụ thằng Sơn.

Chưa kịp dượm bước thì tiếng đạn đại liên cũng vừa dứt. Cùng lúc ấy, bóng thằng Sơn, từ trong cái miệng hầm lao về phía chúng tôi.

Tới nơi, nó thở hổn hển thều thào :

- Hết đạn rồi. Hết đạn rồi.[1]

Chợt thấy Trung Úy Tẩm ngồi dựa lưng gần đó, nó nói :

- Tụi nó tới rồi, Trung Úy.

Có tiếng bên Tiểu Đoàn gọi qua. Thằng Tư cầm máy lên nghe. Nó dạ dạ một vài lần rồi cúp máy. Quay sang Tr/U Tẩm nó nói :

- Đại bàng kêu zulu.

Từng người một rời khỏi phòng tuyến băng vội qua bên kia vòng đai của Tiểu Đoàn. Ai qua trước xong thì yểm trợ cho lớp qua sau. Sau khi tất cả đã qua hết bên này an toàn. Nhìn lại, tôi thấy ba bốn tên cộng quân đang mon men tới gần nơi chúng tôi vừa cố thủ trước đó không bao lâu.

=<>=

Đại Đội 1 bị thất thủ kéo theo Đại Đội 3, rồi Tiểu Đoàn, tiếp theo Chi Khu Thường Đức. Chỉ trong vòng vài tiếng đồng hồ mà tình thế đổi ngược trở nên hoàn toàn vô vọng. Những tiếng la kêu đầu hàng nhưng hình như từ ngữ đó không nằm trong ngôn ngữ của chúng tôi.

Chúng tôi phối hợp với một số bên Đại Đội 3 di chuyển xuống làng. Chưa bao giờ tôi cảm thấy ê chề khi bắt gặp những ánh mắt xót xa của những người dân trông theo từ hai bên đường. Có một số như đã chuẩn bị sẳn, khi họ thấy chúng tôi đi qua họ bèn gồng gánh dắt díu nhau theo sau chúng tôi.

Đến cuối bờ sông bên này con sông Côn thì cả lính với dân không thể di chuyển được nữa. Chúng tôi bây giờ được tăng thêm với một số lính Nghĩa Quân, Địa Phương Quân, Cảnh Sát, Cảnh Sát Dã Chiến, Nhảy Toán .v.v...

Có người nào đó kêu gọi những ai không bị thương nặng tập họp lại. Tôi và một nhóm lính tráng đủ loại đi qua hướng vừa kêu. Đến nơi, chúng tôi cùng đồng ý mở đường máu, theo đường làng, song song với tỉnh lộ số 4 về Đại Lộc.

Đang khi loay hoay chuẩn bị vượt sông, chợt có tiếng gầm phản lực cơ từ hướng tây vọng tới. Những ánh mắt sáng lên mừng rở nhìn về hướng có tiếng vang. Đó đây xôn xao những mẫu đối thoại truyền nhau trong đoàn người:

- Chắc có ai liên lạc nên máy bay bay lên yểm trợ cho mình mở đường máu?

- Chắc máy bay lên oanh tạc căn cứ?

- Chắc máy bay lên yểm trợ cho quân tiếp viện gần tới?

- Hay là mình đợi họ bỏ bom xong rồi quay trở lại hậu cứ?

Tiếng gầm như của phản lực cơ càng lúc càng lớn dần. Trên trời không một dáng máy bay. Tiếng ồn, dường như không bay theo đường thẳng mà di chuyển từ hướng tây, lượn dọc theo con sông Vu Gia, hướng về làng Hà Tân, nơi quân dân đang hổn độn tập trung. Mọi người bắt đầu bân khuâng nghi ngờ không phải máy bay của phe mình. Người người càng xôn xao nhốn nháo khi 2 chiếc phản lực cơ xuất hiện từ sau dãy núi đối diện nơi đóng quân của Đại đội 1. Máy bay bay rất thấp. Thấp đến độ tưởng chừng như chỉ cao hơn đọt dừa một tý. Ngay từ ngày đầu cuộc chiến, không một lần nào máy bay phe ta bay thấp như thế này. Máy bay trông rất lạ. Rỏ ràng không phải phản lực cơ A-37. Từ rạng lên niềm tin, mọi người bắt đầu hốt hoảng tìm chổ tránh nạn. Có những tiếng la lối:

- Chắc máy bay Việt Cộng rồi!

- Máy bay Việt Cộng! Máy bay Việt Cộng!

Có ai đó như nhận ra máy bay của phe ta bèn la lên:

- Máy bay mình! Máy bay mình!

- F-5! F-5!

Hai chiếc phản lực, nối đuôi nhau, bay là đà trên ngọn cây đang tiến dần về hướng chúng tôi. Tôi ngẫng lên nhìn thấy lá cờ mình trên thân máy bay và thấy cả khuôn mặt người Phi công vì họ bay rất chậm và rất thấp. Tôi lo ngại cho họ vì họ không thể nào rời khỏi vùng này bình an dưới màng lưới phòng không của địch. Mặc cho họ bay rất chậm và rất thấp, nhưng có lẻ bị bất ngờ cho nên những ổ phòng không của địch quân đã không kịp phản ứng cho nên không một viên đạn phòng không nào bắn ra từ hướng địch.

Hai chiếc F-5 tiếp tục bay dọc theo Tỉnh lộ số 4. Họ bay rất thung dung, như thể họ không biết họ đang bay trong vùng tử địa, hay họ không nhận thấy quân bạn và dân chúng dưới kia đang trông họ như vị cứu tinh. Và cứ thế, hai chiếc phản lực gầm thét tiếp tục bay tà tà về hướng Đà Nẵng.

Ngay từ ngày đầu cuộc chiến, tin tức hậu cứ Thường Đức bị vây hảm được đăng tải trên trang đầu hằng ngày của những tờ báo, tuy nhiên, Thường Đức chỉ được yểm trợ trên không bằng những chiến đấu cơ như máy bay Khu Trục (Skyraider?) và tối tân hơn là phản lực cơ A-37. Không thấy dáng một chiếc F-5 nào vào vùng. Nay chiến trường đã đến hồi kết thúc, 2 chiếc phản lực cơ tối tân nhất với hỏa lực mạnh nhất của Không Quân VNCH bổng từ đâu xuất hiện.

Như cho rằng máy bay lên yểm trợ mở đường máu, lợi dụng thời cơ, nhóm mở đường máu vội vả chèo thuyền vượt sông. Hai chiếc ghe chở hai nhóm chúng tôi qua sông trước làm đầu cầu cho dân chúng và những người bị thương qua sau. Có lẻ nhờ vào sự hiện diện của máy bay nên địch quân bận lo trú ẩn không kịp ra mặt đối phó nên sự chạm trán khá yếu ớt, nên chúng tôi qua sông với chỉ hai ba người bị xây xát.

Qua được rồi, chúng tôi ra dấu cho mọi người qua theo. Lợi dụng sự thối lui của cộng quân, chúng tôi quyết định chọn lối đánh thần tốc bẳng cách vừa đánh vừa chạy với hy vọng thu ngắn được quảng đường trước khi trởi tối, cũng như trước khi địch quân có cơ hội tái phối trí.

Một điều chúng tôi không ngờ tới, với cách đánh này, con số thương vong bị loại khỏi vòng chiến rất cao. Khi chúng tôi xông qua được một thôn, đến thôn kế tiếp phải vượt qua một cánh đồng. Có lẻ địch quân đã nhận ra hai chiếc F-5 không trở lại, cộng quân bèn bố trí chận đường tiến quân. Khi vừa sắp tới đầu thôn thì bên kia cộng quân đã dàn sẳn bắn ra sối xả. Không cách nào tiến thêm được, chúng tôi đành rẽ trái ra lộ, băng ruộng nhắm vào bìa núi.

Trên cánh đồng, dân có lính có, dắt díu nhau chạy tuôn vô núi. Trên con lộ, cộng quân không buồn dấu diếm, đi thản nhiên xả đạn vào trong đám đông.

=<>=

Sau khi vào hẳn bên trong cho đến khi những tiếng súng bắn đuổi theo nhỏ dần thì tôi bắt đầu chậm lại. Đến một chỗ khá an toàn tôi bèn nhìn quanh xem thử mình ở nơi đâu. Trong khi tôi đang loay hoay định hướng hình dung vị trí của mình trên cái bản đồ tôi nhớ mang máng trong đầu thì tôi gặp thằng Kiệt, thuộc nhóm Nhảy Toán, và thêm một vài người lính khác nữa cũng vừa trờ tới.

Trên đường vào núi, chúng tôi có băng qua một lớp dây cáp điện thoại. Thằng Kiệt và tôi cùng đồng ý là đám việt cộng có thể sẽ đóng quân dọc theo bìa núi. Để cho an toàn, tôi đề nghị nên di chuyển theo sườn núi cách khoảng 1 ký-lô mét song song với bìa rừng. Nếu xuông xẻ, tôi nhẩm tính trong đầu là khoảng 3 ngày thì chúng tôi sẽ đến được Hà Nha.

Để tránh bị phát giác, chúng tôi cứ dọ dẫm đi theo triền núi nên rất chậm chạp. Mãi đến chiều, xa xa tiếng nước suối chảy nghe róc rách. Càng tới gần hơn thì chúng tôi nghe có tiếng người nói chuyện líu lo. Đến gần nhìn xuống con suối tôi thấy toát mồ hôi hột. Dưới suối, một đám con trai con gái súng ống đầy mình đang giặt giũ tắm rửa ồn ào.

Đi thêm nữa thì không được. Mà lùi lại thì cũng không xong. Chì cần một tiếng động mạnh thì cả đám sẽ bị tiêu tùng. Chúng tôi bèn tìm chổ ẩn nấp chờ trời tối để vượt qua con suối.

Tôi và thằng Kiệt kêu khổ im lặng ngồi dấu mình trong bụi cây. Trời nóng hừng hực, quần áo nhớp nhúa dơ bẩn làm người ngợm ngứa ngáy khó chịu. Những con muỗi con nhặng cứ đua nhau vung vít bay qua bay lại không cho chúng tôi được yên thân. Chốc chốc, một con gió nhẹ thổi qua làm cho những lá cây xao động tạo thành những âm thanh rù rì trong cái tỉnh mịch của núi rừng.

Đột nhiên trong tiếng xào xạt của lá cây, có những âm thanh là lạ xen vào.

Tôi cố lắng nghe để tâm phân tích đoán thử cái gì có thể tạo ra những âm thanh mới lạ thì tim tôi chợt thắt lại khi nhận ra đó là tiếng động của những bước chân đang từ từ tiến gần về hướng nơi chúng tôi đang trú ẩn.

Thằng Kiệt cũng đang nhận ra điều đó nên nó khẽ huých nhẹ vào tôi rồi đưa mắt ra dấu về hướng của những tiếng chân đang tiến dần tới. Tôi nhủ thầm, không lẻ bọn chúng đã khám phá ra chúng tôi? Hay là bọn họ đang tuần tiễu? Thời gian như ngừng hẳn lại. Mồ hôi trán tôi rịn ra. Hồi hộp, tôi chậm chạp đưa ngón tay trỏ vào trong lòng cò súng của khẩu Colt.45, một khẩu súng duy nhất tôi còn mang theo với vỏn vẹn 1 băng đạn.

Tiếng động của những bước chân tiến lại gần hơn. Chúng tôi chong mắt nhìn qua bụi cây xem thử ai đó đến gần. Cứ mỗi một tiếng bước chân nghe càng rõ hơn thì nhịp đập của tim tôi lại càng thêm dồn dập. Khi bóng dáng họ hiện dần sau những lùm cây, tôi thấy tất cả đều mặc quân phục. Tôi nhận ra có một vài đứa thuộc Đại Đội 3 và có cả thằng Sơn trong nhóm.

Đến đây thì tôi mới thở dài nhẹ nhõm. Vừa mừng mà cũng vừa lo. Mừng vì tưởng gặp cái họa nhưng không phải. Lo vì ngại đám việt cộng ở dưới suối nhận ra bởi vì mấy vị này đi đứng có vẻ hiên ngang lắm.

Chờ cho bọn họ đến khá gần tôi mới lộ mặt đưa tay ra dấu bảo tất cả im lặng.

Thằng Sơn kịp nhận ra tôi nên nó có vẻ mừng rỡ rón rén chui vào bụi ngồi cạnh tôi. Mấy đứa còn lại cũng bắt chước nó làm theo.

Dưới khe suối, đám việt cộng vẫn tiếp tục tắm rửa và giặt giũ. Họ to tiếng và nói chuyện rất ồn ào.

Tồi nhận thấy giọng nói Miền Bắc của họ có vẻ lanh lảnh và the thé, chứ không có ấm áp và đài các như những người có giọng Bắc mà tôi biết. Tôi nghĩ chắc mấy người này là người miền núi hay ở những vùng hẻo lánh hoang sơ vì giọng nói của họ không giống như giọng nói của những người ở thành phố. Giọng miền Bắc của họ nghe không được êm ái và văn minh. Một giọng nói mang những âm hưởng của người miền núi với những âm thanh chát chúa nghe thật man rợ. Trong tình trạng thập tử nhứt sinh như lúc này, những âm vang của họ còn nghe như những tru tréo vọng về từ cõi âm.[2]

Ngồi chờ hoài cũng sốt ruột nên một thằng trong nhóm bèn có ý kiến:

- Tao có cách để tụi mình qua suối được.

Một thằng khác thầm thì hỏi lại:

- Bằng cách nào?

- Lấy một nắm gạo sấy liệng vô trong bụi.

Vài cái vai rung rinh với những tiếng cười khúc khích. Có một thằng ngây thơ thắc mắc:

- Liệng gạo sấy vô bụi thì làm sao mình qua được?

Thằng bên cạnh vẫn còn cười giải thích:

- Mục đích tụi nó từ Bắc vô Nam là để kiếm cơm. Liệng mấy hột gạo vô đó thì tụi nó sẽ giành nhau lượm. Lúc đó thì mình cứ đi qua chớ tụi nó có còn thấy gì khác đâu.

Gìờ vở lẽ ra nó mới che miệng cười.

=<>=

Sau một vài lần chạm trán với địch quân trong vài ngày sau đó. Cuối cùng chúng tôi cũng thoát được về tới Hà Nha.

=<>=

Sau khi biết chắc Hà Nha là vùng kiểm soát của phe ta. Chúng tôi bèn lần mò trở ra con lộ.

Đến nơi, ngay bìa làng, cạnh con lộ, một văn phòng của Liên Đoàn 14 BĐQ, với vài người lính của BCH Liên Đoàn, được thiết lập trong một quán cóc. Kế đó, một chiếc xe Jeep và một xe Hồng Thập Tự.

Thấy chúng tôi xuất hiện, họ mừng rở dìu chúng tôi ngồi vào ghế rồi mang ra những ly sữa nóng cùng một tô mì gói. Hỏi ra thì được biết họ ở đây để đón những ai thoát về từ Thường Đức. Bụng bị đói meo từ hơn mấy ngày qua, nay uống được ly sữa nóng cộng với tô mì gói rồi làm thêm một điếu Ruby, đến đây, tôi mới cảm được mình thực sự đã rời xa cỏi chết.

No ấm rồi, tinh thần tôi từ từ dịu xuống. Đảo mắt nhìn quanh, tôi chợt thấy nơi đây thật thanh bình. Ngoài những mẫu đối thoại trong quán, không một tiếng đạn đại bác, không một tiếng máy bay oanh kích, không một tiếng la hét chém giết. Khoãng non hơn 2 cây số về hướng Tây Bắc, Bắc, là rặng núi Đông Lâm chạy dài về hướng Đông, nơi đây, cộng quân đang án binh chận đánh quân tiếp viện lên giải vây Chi Khu Thường Đức. Cùng về hướng Tây Bắc, cách quán cóc khoảng vài trăm thước là Đồi 52 do một đơn vị Địa Phương Quân trú đóng. Thỉnh thoảng, một vài tràng đạn từ Đồi 52 bắn ra. Lúc này tôi mới ngợ rằng, thì ra, đây là những tiếng súng vọng lên từ Hà Nha vào những ngày đầu cuộc chiến. Thế mà chúng tôi cứ hăm hở kháo nhau đó là tiếng súng của quân bạn đang đánh lên để tiếp viện chúng tôi.

Sau khi ăn xong, thấy quần áo của thằng Kiệt, tôi và một vài đứa khác máu me tùm lum nên họ đưa chúng tôi lên chiếc xe Hồng Thập Tự. Còn thằng Sơn và một vài đứa lành lặn khác thì ở lại với họ để về BCH Liên Đoàn nhập chung với Đại Đội 2 và Trung Đội 2 của Đại Đội 1. Hai đơn vị nầy được giữ lại đây để bảo vệ Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn khi Tiểu Đoàn bị điều động từ Quảng Tín về để bảo vệ quận lỵ Thường Đức.

Trên đường đi về Tổng Y Viện Duy Tân ở Đà Nẵng, tôi thấy sinh hoạt hai bên đường có phần hối hả nhưng không có vẻ khẩn cấp cho lắm.

Xe chạy ngang qua nơi BCH Liên Đoàn 14, hiện giờ không còn một Tiểu đoàn nào dưới trướng, đang đóng trên Núi Đất ven con lộ. Từng dảy ăng-ten tua tủa chỉa lên trời. Xe lên người xuống tấp nập.

Đến khi tới gần Đại Lộc, tôi thấy người người đi đứng buôn bán rất là bình thường. Hình như họ không biết cộng quân chỉ cách nơi đây chừng mươi cây số, hay họ đã quá quen với không khí chiến tranh.

Trên đoạn đường từ Hà Nha về tới Đại Lộc, tôi không thấy một sự kiện nào để chứng tỏ rằng đã có những toan tính tiếp viện hay giải vây Chi Khu Thường Đức. Tôi cũng không thấy lính Sư Đoàn 3 mang ba-lô súng đạn đi ra chiến trường. Tôi cũng không thấy một đơn vị Dù nào di chuyển trên con tỉnh lộ số 4 về hướng Thường Đức từ Đại Lộc hay ngược lại.[3]

Có dịp tập họp Tiểu Đoàn lần tới, tôi sẽ đề nghị Tiểu Đoàn nên tự phong tự gắn cho mình một giây biểu chương cao quý nhất trong quân đội lên trên hiệu kỳ của Tiểu Đoàn. Bởi vì hiếm khi có một đơn vị cấp Tiểu Đoàn, hơn một nửa Tiểu Đoàn thì đúng hơn, với một số vủ khí đạn dược hạn chế, mà được Quân Khu chỉ định cử ra chọi với hơn cả một sư đoàn của đối phương, với vủ khí hùng hậu dồi dào, mà lại chiến đấu đơn độc cho tới viên đạn cuối cùng, cho đến khi không còn đất dụng vỏ.

Riêng tôi, biết rằng không phù hợp với thể lệ tuyên dương công trạng của QLVNCH, nhưng tôi củng sẽ lấy mấy chục, mấy trăm cái Anh Dũng Bội Tinh với nhành dương liểu gắn đầy trên cả ngực áo cho tôi, cho mấy thằng đã chết, cho mấy thằng bị thương bị bỏ lại và cho những thằng còn vất vưỡng đâu đó ở trong rừng.

Lý do tôi chọn huy chương Anh Dũng Bội Tinh với nhành dương liểu là bởi vì nó cao quý nhất ngoài sa trường và, bảo tôi ngông, vì tôi cho rằng những huy chương này vẫn chưa đủ tầm vóc để so sánh với những đóng góp và những gi chúng tôi đã kinh qua. Và vì, nếu có ai đó diển tả được địa ngục như thể nào, thì nơi đó chưa hẳn là địa ngục.

=<>=

Sau khi được băng bó xong tôi bèn dọt qua Non Nước, Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân Quân Đoàn 1 Quân Khu 1, để gặp Thiếu Úy Lục và Trung Sĩ Việt bây giờ đang tạm thời làm việc như một BCH Tiểu Đoàn dã chiến. Th/U Lục trước đây là Đại Đội Phó Đại Đội 1 nhưng bây giờ là Sĩ Quan Phát Ngân của Tiểu Đoàn. Còn thằng Việt là bạn thân với tôi. Trước đây nó là Thư Ký Đại Đội và bây giờ theo Th/U Lục đi phát lương.

Gặp nhau, thằng Việt mừng hoen nước mắt. Nó và Thiếu Úy Lục đinh ninh là không một ai thuộc Đai đội 1 còn sống sót vì địa thế của ĐĐ1 là mục tiêu đầu tiên cần phải tiêu diệt bằng mọi cách. Hàn huyên một chập, tôi bèn kể về câu chuyện của thằng Sơn. Tôi đề nghị với thằng Việt nên làm đơn kể về công lao của nó rồi xin nó được ân xá phục hồi binh nghiệp cho nó. Nếu được, xin nó chuyển thành quân nhân thực thụ của TĐ79/BĐQ. Thằng Việt nghĩ nó đang ở ngay tại BCH Quân Khu nên nó có thể dàn xếp được.

Vài tuần sau, khi những vết thương đã lành hẳn, tôi được bệnh viện cấp cho giấy phép nghỉ 29 ngày tái khám. Cầm giấy phép trong tay, tôi bèn dọt về quê thăm nhà. Nghỉ chưa hết 2 tuần nhưng tôi đã bắt đầu chán ngán nếp sống sinh hoạt của thành phố, và tự dưng tôi củng dần dà bớt thiện cảm với những người bạn ngoài đời. Tôi cảm thấy lẻ loi khi đi chơi chung với họ. Tôi bèn về trình diện Tiểu Đoàn, lúc này đang bổ túc tại Dục Mỹ. Đến nơi, trừ Đại Đội 2, còn bao nhiêu đều là lính mới.

Không ai biết thằng Sơn lưu lạc nơi đâu. Có tin, BCH Liên Đoàn trả nó lại cho An Ninh Quân Đội. Có tin, nó được phục hồi thành lính Biệt Động và bổ sung về Tiểu Đoàn 78 Biệt Động Quân.

=<>=

Viết tới đây, tôi chợt thắc mắc không biết thằng Sơn nghĩ gì khi đang ngồi trên xe đi đến Bộ Chỉ Huy LĐ14/BĐQ và cũng là nơi giam cầm sắp tới cho nó.

Liệu nó có tìm cách xuống xe trốn thoát, để khỏi phải bị trả về An Ninh Quân Đội? Đâu có ai biết nó là LCĐB, trừ khi nó tự khai.

Hay là nó cứ để mặt cho định mệnh đẩy đưa? Làm sao có ai bên An Ninh Quân Độ biết được những đóng góp của nó mà xét lại tình trạng của nó?

=<>=

Từ đó, tôi không còn gặp thằng Sơn nữa.

Hôm nay, viết lại những nghĩa cử anh hùng xưa. Có người còn sống và cũng lắm người đã chết. Dù sao, đây là bổn phận của người lính Biệt Động. Họ tình nguyện chiến đấu và chấp nhận sự hy sinh. Còn thằng Sơn, nó là Lao Công Đào Binh, không ai bắt nó phải quýnh nhau nhưng nó vẫn nhập cuộc một cách hoan hỉ. Vì vậy, bài viết đầu tiên tôi dành sự trang trọng này cho nó.

Viết cho mày đó Sơn.

Phụ chú:
  1. Để thấy sự lợi hại của hành động thằng Sơn ngày hôm đó, mời bạn đọc xem một đoạn trên báo QĐND ngày 9 tháng 5 năm 2010, của một nhân vật tự xưng là Đại tá Phạm Quang Định (không rõ Đại tá sau này hay Đại tá lúc đó ), thuật lại cuộc tấn công vào Đại Đội 1 trên báo như sau.

    Mặc dầu lời lẽ mang nặng tính chất khoa trương cố hữu và giàu tưởng tượng ở mức trào phúng của người cộng sản nhưng vẫn không dấu được một sự thật. Cũng cần nhấn mạnh rằng: Trong 10 ngày giao tranh, có thể nói không ngoa, đồi Thường Đức, là tử địa của cả hai bên. Biết bao nhiêu lần hai bên giao tranh ác liệt và đẫm máu cả ngày lẫn đêm, thế mà khi nhớ lại chuyện xưa, nhân vật này chỉ tuyệt nhiên nói lên sự kiện người xạ thủ đại liên hôm đó. Điều này cho thấy, thằng Sơn, ngay trong giây phút tuyệt vọng nhứt, cũng đã gây cho địch quân một thiệt hại nhớ đời.

    Một nhận xét bên lề tương đối khích lệ: Sau mấy chục năm tiếp nhận văn minh của người Miền Nam, qua cách nói, bản chất của người cộng sản vẫn không thay đổi nhưng ngôn ngữ có phần bớt lỗ mãng, xất xược, sắt máu và lếu láo, nên lời lẽ đọc lên nghe cũng bớt chói tai hơn trước.

    “ ... 1 giờ sáng ngày 7-8 cán bộ chỉ huy sư đoàn hội ý thống nhất nhận định tình hình và đi đến quyết định: Chuyển hướng tiến công của Tiểu đoàn 9 thành hướng chủ yếu. Trung đoàn 66 mở đợt tiến công cuối cùng đánh chiếm quận lỵ Thượng Đức. Hoả lực của sư đoàn bắn chi viện cho Tiểu đoàn 8 tiếp tục mở cửa. Quả bộc phá nổ cuốn theo lớp hàng rào cuối cùng. Trung đội trưởng Chu Ngọc Oanh dẫn trung đội lao lên. Bọn địch hốt hoảng chui vào lô cốt ngầm bắn ra như điên dại. Từ một lô cốt ở địa thế cao bất thần xuất hiện một khẩu đại liên nhằm đúng hướng của ta nhả đạn, bộ đội không vượt lên được. Trung đội trưởng Chu Ngọc Oanh quyết định dùng bao cát bịt lỗ châu mai của địch để cả Đại đội 6 xông lên đánh chọc thẳng vào trung tâm. ... ”

  2. Sau này ra hải ngoại, tôi có thấy một cô ca sĩ có giọng hát rất hay trong những chương trình văn nghệ của một trung tâm nào đó. Cho đến một ngày kia, sau khi hát xong thì đến mục phỏng vấn, cô vừa nói ra thì tôi chợt rùng mình. Giọng nói cô gợi lại tôi hình ảnh một đám trai gái việt cộng tắm giặt bên suối la lối ồn ào năm nào chợt hiện về. Từ đó, tôi không làm sao có thể tiếp tục thưởng thức được giọng hát của cô nữa. Củng may, B40 xuất hiện không lâu sau đó, nên tôi không cần phải cho máy chạy lướt qua cái phần trình diển của cô thêm nữa.

    Rồi củng một lần nọ, nhân dịp viếng thăm Washington DC, thủ phủ nước Mỹ. Chúng tôi vô tình khám phá ra một nhà hàng VN ở vùng Rosslyn bên Tiểu bang Virgina, nên mừng rở hăm hở vào kiếm thức ăn VN. Khi cô hầu bàn đến hỏi chúng tôi muốn dùng món gì cho khai vị. Thay vì nói như vậy nhưng cô lại hỏi: “Anh dùng món đầu gì ạ?” làm cả nhóm tá hỏa tam tinh không biết cô nói cái gì. Còn riêng tôi thì thấy rợn tóc gáy. Đây đúng là Bắc Tiếm Cư đây rồi, chứ Bắc Di Cư thì làm sao mà có cái giọng khiếp thế. Thế là bọn tôi chuồn ngay không màng xin lổi. Ra ngoài, thấy tiệm để tên Minh, cả bọn gục gặc cái đầu chắc thế.

  3. Trong bài “Trở lại chuyện ông Thiệu” của ông Lử Giang được đăng tải trên một ít trang báo của cộng đồng người Việt. Bài viết thiên về chê trách Tông tông Nguyễn văn Thiệu. Tuy nhiên, trong mục “KHÔNG BIẾT ĐỊCH LÀM GÌ”, bài viết nêu lên 3 điểm chiến lược quan trọng và chỉ trích ông Tông tông đã không nhận ra ý đồ của địch quân mà để cho mất nước. Thường Đức là một trong 3 điểm chiến lược quan trọng đó. Nhận thấy những sự kiện liên quan đến Thường Đức có phần đáng tin cậy, cho nên tôi đưa ra đây đề rộng đường dư luận với tất cà những dè dặt. Ấy là, QĐ1/QK1 biết rõ từ tháng 4 rằng cộng quân đang phát triển đường tiếp liệu và huy động một lực lượng hùng hậu để chiếm lấy Thường Đức, thế mà đến cuối tháng 7, QĐ1/QK1 chỉ đưa mỗi Tiễu Đoàn 79 Biệt Động Quân về đối đầu.

    “ ... 1.- Dứt điểm Thường Đức. Tôi nhớ vào khoảng tháng 4 năm 1974, tôi đang ngồi uống cà phê ở đường Tự Do, Sài Gòn, một người bạn đền hỏi tôi có muốn đi Đà Nẵng không, có chuyện quan trọng lắm. Tôi đồng ý. Chỉ ba tiếng đồng hồ sau chúng tôi đã có mặt tại Đà Nẵng, từ đó chúng tôi được đưa bằng trực thăng lên Thướng Đức. Thuyết trình về tình hình Thường Đức, thuyết trình viên cho biết bây giờ Cộng quân đã đặt ống dẫn dầu đến A Sao, A Lưới, ở bên kia đèo Hải Vân. Họ sắp chọc thủng Thường Đức để đưa dầu xuống mật khu Hiệp Đức ở Quảng Nam và Quảng Ngãi. Sau đó, chúng tôi được trực thăng chở đi xem các đường mới Cộng quân đang làm chằng chịt để tiến quân vào Thường Đức. Chúng tôi hỏi Quân Đoàn tính sao. Thuyết trình viên cho biết đang đợi quyết định của Tướng Ngô Quang Trưởng. Muốn giữ Thường Đức phải có ít nhất một liên đoàn Biệt Động Quân. Nhưng sau đó tôi nghe nói Tưởng Trưởng chỉ cho Tiểu Đoàn 79 Biệt Động Quân thủ ở đó. Vì nhu cầu chiến lược, Hà Nội đã huy đợng 3 Sư Đoàn đặt dưới quyền chỉ huy của Tướng Hoàng Đan để chiếm Thường Đức. Lúc 8 giờ 30 sáng 7.8.1974, Thượng Đức hoàn toàn bị thất thủ. Tướng Trưởng ra lệnh cho Sư Đoàn Dù chiếm lại, nhưng mặc dầu đã có gắng và tổn thất nặng, Sư Đoàn Dù chỉ chiếm lại được một số đồi xung quanh. ... ”

    Cá nhân tôi vẫn thắc mắc không biết sự thật Tướng Trưởng hay đâu đó có ra lệnh cho lính Dù chiếm lại Thường Đức hay không? Bởi vì nếu muốn chiếm lại Thường Đức, với khả năng của 2 Lữ Đoàn Dù, Thường Đức đã được lấy lại chỉ nội trong vòng 1 tuần lễ, và cái mục tiêu như đồi 1062 hay những cái đồi gần đó sẽ tự dưng bị vô hiệu hóa. Đằng này, một thời gian sau khi Thường Đức đã bị mất, 2 Lữ Đoàn Dù mới được đưa tới, đóng quân tại Quận Đại Lộc, rồi giao tranh lẩn quẩn ở mấy cái đồi 700, 1062 , 1235 v.v... thuộc quận Hiếu Đức, từ tháng này cho tới tháng nọ, mà chẳng có lấy một người lính Dù nào đặt chân lên trên địa hạt của quận Thường Đức, dù chỉ là một tấc đất. Điều này, nói lên sự hiện diện của 2 Lữ Đoàn Dù chỉ có ý đồ cầm chân địch quân. Để làm gì? Để cho Đà Nẵng được bình an ngày nào hay ngày đó??? Hay để cho những toan tính nào khác??? Chứ tuyệt nhiên không nhằm mục đích giải tỏa Thường Đức, hoặc đánh đuổi địch quân.