(Tiếp theo “Chuyển Quân ”)
Từng chiếc trực thăng tuần tự đáp xuống. Cánh quạt trực thăng quay vùn vụt tạo nên những cơn lốc xoáy mạnh chung quanh chiếc trực thăng. Bụi cát và rác rưới gần đấy bị hút bổng lên không, quay cuộn thành vòng, bay loạn trong gió cuốn, rồi từng lớp, từng lớp, đảo mạnh xuống, quét ào ngang, quất thẳng vào những người lính đang đứng ngồi chờ đợi. Tiếng động cơ trực thăng nổ lớn và có phần dồn dập hơn chực muốn bay lên như thúc hối đoàn quân lẹ bước lên đường. Cứ mỗi chiếc trực thăng vừa chạm đất thì có một toán lính đã chờ sẵn, người nào cũng cúi đầu, tay giữ nón, lom khom chạy lẹ ra, leo vội lên máy bay. Ở hai bên hông mép trực thăng, mỗi bên có 3 người lính Biệt Động ngồi đưa chân đong đu ra ngoài. Số còn lại, ngồi chen chúc bên trong lòng thân máy bay.
Sau khi đoàn trực thăng đã bốc xong đợt đầu tiên, toán tôi được lịnh di chuyển đến vị trí chờ sẵn cho đợt bốc quân kế tiếp. Tôi hồi hộp đi đến chỗ đợi.
=<>=
Cảnh máy bay ồn ào lên xuống khơi động tính tò mò của mọi người, nhất là dân ở thành phố, chẳng mấy khi họ có dịp chứng kiến cảnh lính trận chuyển quân bằng trực thăng. Có một số thầy cô đã bỏ lớp ra ngoài xem coi máy bay lên xuống. Không mấy chốc, trên những hành lang bên ngoài lớp học đã lúc nhúc đông đảo những học sinh.
Đến nơi, thả chiếc ba-lô xuống đất, không biết làm gì hơn, tôi tò mò nhìn lên những lớp học. Tôi chợt thấy nàng hiện ra. Nàng đẹp tuyệt trần, đẹp ơi là đẹp. Tim tôi háo hức đập dồn dập có nhịp có điệu như trống múa lân. Người đời cứ cho rằng Tiên đẹp ghê gớm lắm nhưng tôi chưa nghe ai nói đã có diểm phúc gặp gỡ được Tiên. Riêng Tiên của tôi thì tôi chỉ thường gặp được trong mơ. Sáng ra ngủ dậy, thấy Tiên giống na ná như những cô nàng mới gặp hôm qua. Vì chưa gặp Tiên bằng xương bằng thịt bao giờ, nên tôi không biết Tiên đẹp não nùng như thế nào. Nếu có, tôi nghĩ, Tiên mà đẹp được như nàng là Tiên may mắn lắm.
Tôi chưa thấy ai có một nét đẹp thanh tao huyền hoặc như nàng. Nàng sáng lên rực rỡ trong bộ đồng phục với chiếc áo dài nữ sinh màu trắng mượt bóng bẩy như ngọc trai. Trông nàng cao sa, thánh thoát, kiều diễm như một thiên thần. Chung quanh nàng như tỏa ra một vùng hơi sương óng ánh che mờ những cô cậu nam sinh nữ sinh gần đó. Vương miện nàng là chiếc bê-rê màu nâu. Hào quang phát ra từ chiếc mũ nâu làm một vòng tròn quanh đầu nàng lung linh sáng. Khoác trên vai nàng, trông tựa như thiên kiếm là khẩu M-72 được đeo dọc theo một bên vai. Hai tay nàng ôm cây M-16, xéo trước ngực, trong tư thế thao diễn. Nàng đứng đó, bất động, nhìn về hướng tôi. Trông nàng một mực uy nghi, lẫm liệt nhưng không kém phần diễm lệ.
Bất chợt, nàng nhoẻn miệng cười, thầm thì trò chuyện cùng những bạn học kế bên. Qua nụ cười, bỗng dưng, tôi thấy nàng hơi quen quen. Sau một hồi kiểm kê trí nhớ, tôi nhận ra nàng là cô gái tôi đã gặp trong một khu phố ở bên Hoà Cường trước đây.
Số là, một bữa nọ, thằng Bình ở bên Đại đội 2 cùng với một vài người bạn qua rủ tôi đi “tuyên truyền chiêu hồi” bên phố Hòa Cường. Thấy tôi có vẻ ngơ ngác, nó cười giải thích:
- Đi dẹp nhảy đầm đó mà.
À, thì ra thế. Qua kinh nghiệm lần trước, tôi nhắc nhở nó:
- Bộ lần trước bị dủa thê thảm chưa ngán sao mà lần này còn đi phá nữa?
Nó cười đáp lại:
- (vt) Nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ đó.
Vài hàng về nhân vật tên Bình này. Nó có một khuôn mặt khá bô trai, cao ráo, luôn miệng cười, ít nói, sành điệu và tốt với bạn bè. Nghe kể rằng trước khi tình nguyện vào Biệt Động, nó từng là du đãng thuộc loại có máu mặt ở Cao Đồng Hưng, Sài Gòn. Nhờ có khiếu và thường xuyên la cà ở mấy cái phòng trà nên nó nhảy đầm rất điệu nghệ và có tiếng là "Vua făn-ta-zi". Với cái vốn liếng făn-ta-zi đó, không mấy chốc, nó được giới nhảy đầm ở Đà Nẵng biết đến và săn đón để được nó chỉ giáo. Cho đến một ngày, nhà của một ông Nghị Hội Đồng Tỉnh tổ chức nhảy đầm và nó được mời đến dự. Sau những bước făn-ta-zi lả lướt trước những anh mắt trầm trồ của bá quan văn võ thì đến màn nó hướng dẫn thiên hạ những chiêu thức múa ngoáy ngoạn mục. Đột nhiên, nửa chừng nó ngưng lại rồi lên giọng dạy dỗ thiên hạ: Nào là, có biết bao người cùng trang lứa với họ, hay thân nhân bà con của họ, ngay giờ này, đang ngã xuống ngoài mặt trận, hoặc đang bị thương, rên xiết lăn lộn, máu me bê bết, hay đang quýnh nhau với tụi việt cộng để cho họ được an toàn vui chơi ở hậu phương; Nào là, đất nước đang trong hoàn cảnh chiến tranh mọi người cần phải ủng hộ, chia sẻ, kể cả mặt tinh thần; Nào là, nhảy đầm là một hình thức vui chơi giải trí nhưng không thích hợp với hoàn cảnh hiện tại; Nào là, hành động ôm nhau xà nẹo như thế này là một thái độ tiêu cực, một hình thức đâm sau lưng chiến sĩ. v.v... và v.v... Phán xong, nó tỉnh bơ ra về trước những ánh mắt ngỡ ngàng lẫn bất bình của những người hiện diện hôm đó.
Tiếng lành đồn gần, tiếng dữ đồn xa, tiếng phá đám dọt lẹ hơn honda. Chẳng biết ai mách bảo ra sao, mà ngày hôm sau, cái tin nó phá đám lọt đến tai ông đơn vị trưởng, thế là nó bị ổng kêu lên xài xể cho một mạch về cái tội phá bỉnh cuộc vui của người khác.
Trước khi vào lính, tôi cũng bị ảnh hưởng của giới thời thượng thu hút nên cũng tập tành nhảy nhót cho mình có được cái "mat" văn minh, ăn chơi với thiên hạ. Sau khi thành lính, tự dưng tôi lại dị ứng với chuyện nhảy đầm. Chân cẳng đi đứng bây giờ trở nên cứng cáp hiên ngang chứ không còn mềm mại yểu điệu như xưa. Nếu là thời bình, dắt díu nhau lê theo tiếng nhạc, ông lôi qua bà kéo lại, chàng lên đầu gối, nàng giựt cùi chỏ, thụi nhau túi bụi, tôi thấy đó cũng là một hình thức giải trí thể dục thẩm mỹ. Thế mà sao cái vụ ôm nhau xà nẹo trong khi tiếng bom tiếng pháo vọng về bên tai thì tôi lại thấy nó có cái gì không ổn. Như người xưa đã nói: "Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh", chứ có ai nói "Giặc đến nhà, chúng ta khiêu vũ" bao giờ. Tuy nhiên, các cụ cũng chẳng nói "Giặc đến nhà, không ai được nhảy", như vậy thì nhảy nhót đâu có gì đáng trách. Cái kẹt là, trong lúc "đàn bà cũng đánh" mà "chúng ta khiêu vũ" thì thấy có vẻ thờ ơ với thời cuộc. Vì vậy, nếu nhắc nhở ai đó chớ nên thờ ơ thì đó là một việc làm cần được khích lệ.
Tuy đồng tình với thằng Bình, nhưng tôi cũng ớn cái máu giang hồ ngày xưa của nó nổi dậy nên hỏi cho kỹ càng:
- Như lần trước, phải không?
- Thì cũng như lần trước vậy!
- Có nghĩa là, mày vô đó làm một màn biểu diển để thiên hạ chú ý. Đến lúc thuận tiện thì mày lên giọng "thuyết pháp". Tụi tao thì đứng vòng ngoài yểm trợ cho mày. Mày giảng xong, tụi mình đi ra. Không gây lộn, không lời qua tiếng lại, kể cả khi họ chửi bới sau lưng?
Nó đồng ý. Thế là tôi đi theo tụi nó qua bên Hoà Cường. Đến nơi thì mới hay rằng buổi nhảy đầm đã được tổ chức ở một nơi khác. Thấy “mục tiêu” không còn nữa, cả bọn đứng lớ ngớ bên ngoài. Lạ cảnh, tôi đưa mắt bâng quơ nhìn ngó chung quanh. Trong khung cửa ở bên ngôi nhà đối diện, có một người con gái vừa bước ra đứng nhìn về phía chúng tôi. Dưới ánh sáng của ngọn đèn nê-ông, không chỉ riêng tôi, mà cả đám đực rựa hôm đó đều đờ đẫn ngẩn ngơ trước sự xuất hiện của nàng. Với chiếc băng-đô màu hồng đậm trên mái tóc thề, nàng hiện ra như một nàng tiên vừa giáng thế. Như thấy chúng tôi như một lũ ngố đứng há hốc thẫn thờ, nàng nhoẻn miệng cười như thông cảm cho sự ngô nghê của đám mày râu.
Hôm nay, nàng cũng cài chiếc băng-đô màu hồng đậm trên mái tóc. Tóc nàng được vén sang một bên vai rồi thả xuống phía trước trông rất quyến rũ. Một tay nàng đặt tựa trên lan-can, tay kia đưa cao như vân vê mái tóc. Như mấy cô cậu học sinh khác, nàng đang chăm chú xem coi sinh hoạt của đoàn quân.
Đợi khi nàng quay xuống về hướng mình, tôi vụt đứng vội lên để hy vọng nàng nhận ra tôi. Nàng dừng lại hơi lâu nhưng tôi không chắc nàng có nhận ra tôi không? Tôi muốn đưa tay vẫy nhưng lại ngại làm trò cười cho mấy thằng xung quanh. Tôi đành đứng tại chỗ vời trông, lạy Trời cho nàng ngó xuống nhận ra tôi.
Thấy tôi chăm chú nhìn nàng, thằng bạn bên cạnh bắt lấy cơ hội chọc quê tôi:
- Đẹp thiệt đó mày. Bồ mày nữa đó hả?
- Ờ.
- Mày dóc bỏ mẹ. Bồ, mà sao nó như không thèm nhìn mày?
- Dóc hồi nào. Mày nói nó là bồ của tao, chớ tao có nói tao là bồ của nó bao giờ.
Trong khi ấy, nàng vẫn tiếp tục líu lo với những bạn học bên cạnh. Có lẽ nàng không nhận hay không muốn nhận ra tôi. Tôi thấy nàng có vẻ theo dõi một ông quan ở Đại đội 3, đang tỉ tê với cái ống liên hợp rất là ướt át.
=<>=
Đoàn trực thăng đổ xong đợt lính đầu tiên trở lại đón chúng tôi. Đến phiên toán tôi, thay vì chạy cho lẹ để dành chỗ bên trong máy bay, không hiểu tại sao, tôi cũng chạy lẹ, nhưng lẹ để giành chỗ ngồi ngay bên cái mép trực thăng, đối diện với nàng, để nàng có thể dể dàng nhận ra tôi hơn. Và cũng để cho nàng nhìn thấy cái hình ảnh thiêng liêng hùng tráng của "lính Biệt Động" trên đường ra sa trường.
Sau khi an tọa đâu vào đó, tôi ngước lên tìm nàng. Trước mắt tôi bây giờ chỉ là một màng bụi. Gió từ cánh quạt trực thăng ào ra, thổi tung bụi cát rác rưới tung bay rối loạn trong không gian. Tôi không còn thấy ai trên những dãy hành lang. Hình như mọi người đã quay vào trong tránh bụi.
Tiếng máy bay trực thăng gầm lớn hơn. Thân máy bay chuyển động lắc lư vài cái rồi vụt cất lên cao. Mặt đất như hụt xuống đến độ chóng mặt. Tôi có cảm giác như mình gần như sắp bị hút lọt ra ngoài. Tôi muốn thụt vội vào trong cho an toàn nhưng không còn kịp nữa.
Đoàn trực thăng, theo con sông Hàn, tăng tốc độ, bay cao dần. Gió thổi phần phật, mổi lúc một mạnh hơn. Mấy cặp chân của 3 thằng chúng tôi đang ngồi đong đưa bên ngoài bị gió lùa đẩy mạnh tạt về phía sau. Khiếp quá, tôi lật đật rút vội đôi chân lên nhưng không sao cưỡng lại được với sức gió. Tôi có cảm giác như là tôi đang bị một sức hút vô hình kéo tôi dần ra khỏi thân máy bay. Hoảng hồn, tôi bấu đại vào cái sườn của thân trực thăng gần đó. Đôi chân tôi vẫn cứ bị đẩy lùi từng hồi về đằng sau. Tôi gồng người cố gắng giữ mình không để bị hút cuốn ra ngoài. Tôi có cảm giác rằng, nếu mà không có cái ba-lô nặng trịch đeo sau lưng giữ lại, thì chắc tôi, có lẽ, đã "cuốn theo chiều gió" hoặc đã áp dụng bài "tuột núi" không dây.
Hồi hộp quá, tôi bực mình cho cái tính bốc đồng dại dột của mình. Lấy le làm gì mà để giờ này sống giở chết giở. Phải chi cô nàng có để ý đến mình đi cho cam. Đằng này, tướng đứng ở đây mà nàng không biết. Nàng chỉ thấy được tới những ông quan qua lại tới lui. Tôi tự an ủi mình, thế cũng đỡ cho tôi, bớt đi được một người khỏi phải nhớ nhung lôi thôi vớ vẩn.
Trực thăng như đã lên đủ cao độ. Hoặc là, có thể sức đẩy của gió dường như có phần giảm lại? Hay là, tôi đã quen với sự chịu đựng? Dần dà, tôi cảm thấy tự tin hơn khi biết mình có thể điều khiển đôi chân xê dịch qua lại không mấy khó khăn nữa. Tôi bớt dần cảm giác khó chịu với cái thế ngồi của mình. Tôi bắt đầu cảm thấy thoải mái và bình tâm ngắm nhìn quê hương bên dưới. Những nhánh sông, những khu nhà, những con đường dập dìu xe cộ ngược xuôi, tất cả trông thật an bình, linh động.
Bên những chiếc trực thăng kế cận, những thằng bạn trong quân phục rằn-ri, tay ghìm súng, ung dung ngồi thả rong đôi chân đong đưa trong gió. Trông tụi nó còn thản nhiên hơn những "anh hùng hiên ngang đi ra sa trường" trong một bài hát nào đó. Tôi bỗng nghĩ, giá mà rinh được ông Kinh Kha hay cả chục ông về đây, rồi bắt mấy ổng đi chung trực thăng với lính Biệt Động, chắc mấy ổng phải xanh mặt khóc ré lên. Tôi buồn cười khi nghĩ đến cảnh mấy ông Kinh Kha mặt mày xanh lè ôm nhau khóc sướt mướt. Và đồng thời, tôi thấy lòng rạt rào với niềm tự hào của đời khinh binh Biệt Động.
Thành phố Đà Nẵng, ở bên dưới, co lại dần và lùi lại đằng sau nhường chỗ cho những làng mạc nối nhau bên những con lộ. Xa xa, nhà cửa dần dà thưa thớt và cuối cùng gom lại như những ốc đảo nằm rải rác trên những cánh đồng lỗ chổ những hố bom. Xa hơn nữa là dãy trường sơn, giờ hiện rõ, những rặng núi nối nhau chạy dài liên tục đến tận chân trời.
Một người nào đó như nhận ra địa thế bên dưới mừng rỡ la lớn cho mọi người cùng biết:
- Hê! Mình đi về Thường Đức.
- (vt) Chắc không?
- Chắc. Bộ mày không thấy Đại Lộc dưới kia sao?
Cái thằng ngố rừng giống như tôi, chưa bao giờ đặt chân lên Đại Lộc, gân cổ:
- (vt) tao mà biết Đại Lộc thì hỏi mày làm cái quái gì.
Chúng tôi đang đinh ninh là sẽ đi Quế Sơn. Tôi đang hồi hộp nghĩ tới cảnh tượng quýnh nhau sắp đến. Tôi không biết chút nữa đây, trực thăng sẽ thả chúng tôi xuống ngay vùng giao tranh, hay đáp ở một chỗ an toàn nào đó rồi di chuyển tới? Nay nghe có người nói đi về Thường Đức với một giọng có vẻ chắc nịch, tôi thấy người mình nhẹ nhõm, bao nhiêu lo âu chợt tan biến giống y như khi người đẹp gác bỏ ý định dẩn độ mình về trình diện ông bô bà bô.
Không bao lâu, đoàn trực thăng từ từ hạ dần xuống. Quận Thường Đức rõ dần trong ánh mắt chúng tôi.
Trên sông Vu Gia, đây đó những chiếc thuyền con đang giăng câu. Trên bờ, ngôi làng Hà Tân đượm một màu xanh mướt bởi những hàng dừa rặng tre vươn cao bao phủ bên trên đan nhau chạy dài từ đầu thôn đến cuối xóm. Nơi cuối làng, dọc theo bờ con sông Côn, những chiếc ghe nằm rải rác bên nhau nối dài đến tận chân cầu. Tỏa ra từ đầu cầu là những con đường, uốn cong dẫn vào bên trong ngôi làng. Trên những con đường làng, người người dập dìu đi lại. Cách chiếc cầu không xa, cây thánh giá màu trắng, vươn cao từ ngôi giáo đường bên dưới, nổi bật lên trên màu xanh đậm của những hàng dừa. Cạnh bên hông nhà thờ, trước quán nước, những đứa bé ngừng chơi, nhảy tưng tưng như hý hửng, đưa tay vẫy.
Đây sẽ là một bức tranh miền quê thanh bình hoàn hảo nếu đừng có những dấu vết của hố bom lổ đạn lổ chổ trên những triền núi ruộng rẫy chung quanh. Biết làm sao đây, để xóa tan những vết sẹo trên quê hương tôi?
Có tiếng vang lên:
- Hậu cứ dưới kia kìa.
Mấy thằng chúng tôi cùng đưa mắt nhìn theo hướng chỉ tay. Trên đỉnh đồi, ngay đầu làng, là những vòng công sự phòng thủ được bao bọc bên ngoài bằng những lớp hàng rào kẽm gai. Không như ngôi làng Hà Tân bên dưới với cây lá um tùm xanh mát, hậu cứ mang một màu vàng úa khô khan của sỏi đá với những hầm hố và giao thông hào luồn lõi khắp nơi.
=<>=
Càng trực thăng vừa chạm đất, chúng tôi vội vàng nhảy xuống, cúi đầu, chạy lẹ đến điểm tập trung. Thay vì đi về phía Bộ Chỉ Huy Tiểu đoàn như một một số lính đến trước, chúng tôi được lệnh đi qua bên phía ngọn đồi kế cận tập họp. Đến nơi, tôi mới biết toàn thể ngọn đồi là nơi đóng quân của Đại đội 1.
Chỉ riêng mấy chàng quê ở Thường Đức, anh nào anh nấy mặt mày cũng hý hửng cười toe tươi rói. Còn chúng tôi, những thằng không có một ai thân thích ở đây, tuy không tròn xoe đôi mắt, cười toét quai hàm, nhưng chúng tôi cũng cảm thấy lâng lâng trong niềm hân hoan của tụi nó. Như cảm được nổi lạc lõng của chúng tôi, một thằng cùng trung đội có nhà ở Thường Đức an ủi:
- Để vài ngày nữa đâu vào đó, tụi mày xuống nhà tao chơi. Tao sẽ đãi tụi mày một chầu.
Nghe được mời ăn, cả đám nhao lên:
- Đãi cái gì?
- Thịt heo cuốn bánh tráng. Món đặc biệt số dzách của Thường Đức.
Nói tới ăn nhậu, không khí bỗng dưng nhộn nhịp hẳn lên. Kẻ bàn qua, người nói lại ồn ào. Hình như ai cũng quên hẳn cái bỡ ngỡ lạc lõng mấy phút trước đó.
Trong khi chờ đợi đầy đủ quân số để tập họp. Chúng tôi tụm năm tụm ba tản mát quanh sân đại đội. Nhìn quanh ngọn đồi, tôi không thấy một cái nhà hay một cái doanh trại nào cả. Ngoại trừ cái văn phòng Đại đội là một căn nhà tôn nằm chơ vơ giữa đồi, và một cái chòi không vách gần đó là nằm trên mặt đất, còn lại tất cả đều là những lô-cốt, nửa chìm nửa nổi, nằm rải rác chung quanh ngọn đồi.
Đang từ một nơi thị tứ nhộn nhịp nhà cửa san sát cây lá xanh mát, nay về đóng đô ở trên một cái đồi trọc lóc, không một nóc nhà, không một bóng nữ nhi. Nhìn đâu cũng chỉ thấy toàn là sỏi với đá. Chung quanh đồi lổm chổm với mấy cái nấp hầm nứt nẻ loang lổ nhô lên từ mặt đất như những nấm mồ vô chủ hoang phế nằm lây lất trong bãi tha ma. Đang từ một nghĩa địa ở Đà Nẵng về đây, một thằng không dằn được nổi chán chường, buồn bã biểu lộ:
- (vt) Hậu cứ gì mà sao giống cái nghĩa địa quá dị!
Vài cái miệng nhăn răng cười mếu máo như đồng tình với cái nhận xét dí dỏm khá rùng rợn của nó.
=<>=
Trung đội tôi được chỉ định phòng thủ về hướng Tây. Tập họp xong, chúng tôi đi theo ông Trung đội trưởng về nơi trú ngụ. Tôi và ba thằng nữa được giao cho một cái lô-cốt. Bốn thằng chúng tôi hăm hở chui vô đặt cọc làm chỗ tư gia.
Lô-cốt, được phiên âm từ chữ “blockhaus” của mấy ông tây bà đầm, thường được gọi để nói về một nơi đồn trú được xây cất bằng xi-măng hay bằng đá, rất kiên cố, được dùng như một công sự phòng thủ.
Vừa mới đưa đầu vào hầm thì chúng tôi được chào đón bằng một mùi ẩm thấp mốc meo khá nồng nặc như đang bước vào trong một hang động, hay một thạch cốc nào đó mà đã lâu rồi không có một bóng người lui tới. Còn đang bận rộn làm quen với bóng tối thì chúng tôi lại được chiếu cố khá tận tình bởi một bầy muỗi. Chúng nó kêu réo bâu quanh chúng tôi cứ y như là chúng nó ồn ào ăn nhậu trên bàn tiệc.
Bên trong hầm, ngoài cái trụ cột bằng gỗ to lớn, nằm chình ình ở chính giữa hầm để chống đở sức nặng của mái hầm bên trên, căn hầm không có một thứ vật dụng nào khác.
- (vt) Trại lính gì mà không có nổi một cái giường. Còn tệ hơn là ở trong quân trường nữa!
Cái lô-cốt, giờ là cái nhà của chúng tôi, được đào sâu xuống đất khoảng non 1 thước rưỡi. Vì quá thấp nên chúng tôi phải cúi đầu mỗi khi đi đứng bên trong. Nắp hầm được phủ lên khoảng 3, 4 tầng bao cát và 1 lớp xi-măng cuối cùng bên trên. Thỉnh thoảng có ai bước mạnh ở trên nắp hầm, một ít nhúm cát tuôn ra từ những bao cát đã bị rách, theo những kẽ hở rỉ rả lăn, rớt lăng tăng từng đợt xuống sàn hầm bên dưới. Căn hầm được khoét sâu bốn bề gần như vuông vức, mỗi cạnh khoãng chừng 4 thước. Sàn hầm được nện bằng đất nên cũng khá cứng rắn. Ngoại trừ 2 lối ra vào, không cửa, ở 2 bên giao thông hào, chung quanh hầm là 4 bức tường được dựng lên bằng những bao cát chồng chất lên nhau. Những bao cát, có lẽ có mặt ở đây từ lúc ban đầu, cho nên một phần lớn những lớp vải bọc cát đã bị rách thành từng mảng lớn nhỏ dính tòng teng bên ngoài thành vách. Và phần đất bên trong bao cát, trải qua bao nhiêu mưa gió, đã được ém chặt động lại thành cục, cứng rắn không kém gì một tảng đá.
Sau khi hun muỗi và quét dọn một đống rác rưởi cỏ hoang lâu ngày ở trong hầm, chúng tôi chia nhau mỗi thằng một góc hầm, cùng nhau dăng một đầu võng vào chung cái trụ gỗ ở chính giữa, còn đầu kia thì cột vào cái góc hầm của mình. Kế tiếp, lấy chiếc pông-sô máng lên trên trần để che dột, cả nước lẫn cát. Đâu đó xong xuôi, coi như tạm xong cái chỗ ngủ, chúng tôi ra ngoài, leo lên nóc hầm, tò mò, quan sát địa thế chung quanh.
Từ khi đặt chân xuống hậu cứ, lần đầu tiên nhìn thấy những rặng núi cao ngất bao bọc chung quanh Thường Đức, tôi không khỏi tránh được cái cảm giác ngột ngạt, như có một vầng ám khí vô hình nào đó đè nặng trên không. Địa thế chung quanh Thường Đức có thể ví như một cái chảo, mà hậu cứ và cả ngôi làng Thường Đức hoàn toàn nằm gọn bên trong lòng chảo, tứ bề thuận lợi cho quân bao vây, tấn công. Tôi không biết mấy ông lớn nghĩ thế nào mà chọn địa điểm này làm căn cứ, chớ tôi chỉ nhìn mấy cái núi chung quanh không thôi là tôi đã thấy lạnh buốt ở sau gáy.
=<>=
Trong bữa cơm chiều, nhân có mấy thằng ở Thường Đức cùng đang ăn chung, tôi bèn chỉ tay về dãy núi ở hướng Nam, phía bên kia sông, chạy dài từ Đông sang Tây, hỏi nó:
- Cái núi bên kia là núi gì vậy, mậy?
Nó trả lời:
- À, dãy pla-tô.
- Có lính mình đóng ở trển không?
- Không.
Tôi lại chỉ về dãy núi ở hướng Tây trước mặt.
- Còn cái núi này, có lính mình ở đó không.
- Không.
Đưa tay sang về rặng núi ở hướng Bắc, tràn ra từ Tây sang Đông.
- Còn bên kia, có ai không.
- Cũng không luôn.
- Như vậy là chỉ có mình đóng ở đây thôi, còn mấy cái núi chung quanh thì không có ai hết?
Nó gật đầu:
- Ờ, chỉ có Tiểu đoàn mình là đóng ở đây thôi. Ra khỏi đây thì không còn an ninh nữa.
Để cho chúng tôi được am tường rõ ràng hơn về hiện tình nơi đây, nó bèn đưa tay chỉ về hướng Tây, xéo xéo về hướng Nam một chút, nói:
- Hồi trước, có một trại Biệt Kích ở trên Khâm Đức nhưng mà người ta bỏ nó cả mấy năm nay rồi. Bây giờ, từ đây cho tới biên giới Lào, không còn lính mình hay làng mạc gì nữa hết.
Như để hổ trợ lời nó, vài tiếng depart từ 2 khẩu 105 ly bên phía Tiểu Đoàn bắn đi. Nó nhanh nhẩu cho biết:
- Chắc mấy ông pháo binh bắn thử hay bắn vào mấy chỗ khả nghi.
Một thằng trong bọn từ nãy giờ ngồi nghe, mắt nhìn lên trên mấy cái dãy núi chung quanh, lẩm bẩm:
- (vt) Bộ hết chỗ đóng hay sao mà lựa cái chỗ này. (vt) Tụi nó mà kéo về ở mấy cái núi đó, đứng ở trên đó mà liệng đá xuống thì cả cái quận Thường Đức này cũng nát, chứ cần mẹ gì phải đánh đấm.
Một đứa khác có vẻ thông minh bàn vô:
- Phải đóng ở đây thì mới giữ an ninh được chớ. Dân ở đây mà. Lỡ mà tụi nó muốn chiếm thì nó phải quýnh mình trước. Chớ đóng ở chỗ khác thì làm sao mà mình kéo tới phản công cho kịp?
=<>=
Cơm chiều xong, tôi được chỉ định làm phiên gác từ 10 đến 12 giờ đêm. Nhân trời hãy còn sáng, tôi leo lên nấp hầm để quan sát địa thế chung quanh, nhằm để ý xem nơi nào tụi nó có thể chui vào hoặc rình rập ẩn nấp, để khi đến phiên gác, tôi sẽ lưu tâm đến những nơi đó một cách đặc biệt hơn.
Thấy tôi đứng một mình trên nóc hầm, một thằng bạn cùng đơn vị mon men đến bên cạnh. Nó cũng nhìn quanh một vòng rồi buông thõng: